Chương 47 KHI ÁNH SÁNG NỘI TẠI CỦA BẠN BIẾN MẤT
C. A. vô cùng đau buồn nói rằng trước đây cô có thể chịu đựng nhiều thử thách của cuộc đời trong tâm trạng tương đối thanh thản, bởi vì từ thuở ấu thơ, cô đã có một thứ ánh sáng nội tại vĩnh cửu. Nhưng một ngày kia, ánh sáng này bất ngờ biến mất – một điều chưa từng xảy ra. Một nỗi cô đơn bất ngờ, một sự trống rỗng tàn phá phủ trùm lên cô, nó đáng sợ đến nỗi trong nhiều ngày cô đã không biết mình đang làm gì. Thật không thể chịu nổi. C. A. nói hẳn là cô đã làm gì đó khiến mình trở nên tiêu cực, để cho những thứ xấu xa len lỏi vào tâm hồn. Có lẽ cô đã quá năng động và lãng phí, cô có biết bao việc phải làm. Tại sao ánh sáng nội tại rời bỏ cô? Làm sao cô có thể tìm lại được nó?
Thuở ấu thơ và thời trẻ, chúng ta thường có ánh sáng phi thường này trong mình, nó như một bài hát trong tim, theo chúng ta suốt cuộc đời. Nhưng với một số người, ánh sáng đó sẽ sớm phai mờ. Ánh sáng ấy đến với chúng ta không qua một sự cưỡng cầu nào và nó đơn giản là ở cùng chúng ta. Chúng ta xem nó như lẽ đương nhiên và chúng ta tồn tại cùng với nó mà không hay biết. Nếu chúng ta không cố tình làm việc gì đó xấu xa và đánh mất chính mình trong một việc làm hoàn toàn ngu xuẩn nào đó, thì ánh sáng đó sẽ tiếp tục ở cùng chúng ta một cách an lành, hiện diện ở đó mà không bị gián đoạn. Nhưng khi lớn lên, trong tình trạng mệt mỏi, trong vô minh, trong tính đam mê vật chất, chúng ta sẽ trở nên lệ thuộc vào nó, chúng ta nắm giữ nó, chúng ta tàng trữ nó, chúng ta bắt đầu tận dụng nó. Rồi một ngày nào đó, nó rời bỏ chúng ta. Và cũng giống như khi tới, nó bỏ đi mà chẳng cần chúng ta cho phép. Chúng ta bị bỏ lại với sự trống rỗng đau khổ, với nỗi cô đơn tàn phá và chúng ta khóc lóc cho thứ đã mất đi.
Lúc đó, ký ức thức giấc, đi tìm những cách thức và phương tiện để hồi sinh ánh sáng đó. Tại sao nó mất đi? Tôi đã làm gì mà để mất nó? Tôi phải làm gì để có lại nó đây? Có hy vọng nào cho việc đó không? Tư tưởng đi lung tung trong những vòng lẩn quẩn, trong nỗi tuyệt vọng và niềm hy vọng, thử mọi cách để đoạt lại ánh sáng ấy, giống như một bà mẹ cố hồi sinh đứa con đã chết của mình.
Chẳng phải C. A. cũng đang làm như vậy, tức là cố gắng hết sức mình để đoạt lại ánh sáng đó, bằng cách cho chính mình những lời giải thích, biện hộ, bằng cách cố gắng tìm ra những nguyên nhân khiến nó biến mất hay sao? Sự quay cuồng của tâm thức đang ngăn cản cô ấy hiểu được tình huống thật sự của mình. Cô có thể không bao giờ có lại được ánh sáng ấy, bởi vì nó không phải là một thứ thuộc về tâm thức, và dù trải nghiệm kéo dài liên tục của nó có dễ chịu và đầy cảm hứng đến thế nào thì giờ đây nó cũng không còn nữa.
Nếu không cho rằng biến cố này quá khắc nghiệt, thì cô nên biết ơn điều đó, bởi vì đây là một sự thức tỉnh. Trước đây, cô chấp nhận nó, sống cùng nó và chấp nhận những thử thách thông thường của cuộc đời. Nhưng giờ đây, cô bị đánh thức một cách đột ngột, chịu cú sốc của nỗi cô đơn, trống rỗng sâu xa mà không có bất cứ thứ gì để dựa vào. Cô nên cảm ơn trời đất vì sự kiện này. Trong trạng thái cực kỳ nhạy cảm, cô phải tỉnh táo một cách sắc bén để không bị lạc lối trong những vấn đề thứ yếu, trong những niềm tin, cách giải thích hay sự thay thế nào đó, bởi vì việc tìm kiếm nguồn an ủi sẽ hủy hoại hoàn toàn sự hiểu biết. Việc tìm kiếm nguồn an ủi này diễn ra vô cùng tinh vi, cách thức của nó là dối trá, lén lút, nên nó chẳng dẫn tới đâu ngoài tình trạng suy tàn và trì độn. Nếu cô không tìm một sự an ủi tẻ nhạt thì đây là lúc khởi đầu cho sự phục hồi đích thực. Bị bóc trần hoàn toàn, không có bất cứ sức mạnh nâng đỡ nào, cô có thể bắt đầu đào sâu vào chính mình, hiểu được các chướng ngại vật và những trở ngại. Càng nhận thức được thì khả năng đào sâu, hiểu biết của cô càng lớn hơn và rộng hơn. Nhờ tự biết mình mà có trí tuệ và sự bất diệt.