← Quay lại trang sách

Chương 56 CÁC LÝ THUYẾT VÀ GIẢNG GIẢI ĐỀU LÀ NHỮNG TRỞ NGẠI

F. G. giải thích rằng cô từng tham gia rất nhiều giáo phái và đoàn thể. Trong mỗi tổ chức, cô đều tìm thấy một điều gì đó, được khơi mở những cảm nhận sâu sắc và cô biết ơn về chuyện này. Nhưng giờ đây, cô thấy mình bị kiệt sức và bản thân cô chẳng đi tới đâu cả. Cô nói trong cô chất đầy các lý thuyết, lời giảng, nghi thức và những phát biểu, nhưng cô bị bối rối, bất định và khá lạc lối.

Chẳng phải việc quan trọng trước hết cần hiểu được là cô đã làm gì với chính mình và tiếp theo, khi đã hiểu được điều này, là giáo dục lại bản thân cô hay sao? Bởi vì nếu không hiểu quá khứ, cô có khả năng lặp lại hay rơi vào những suy nghĩ và hành động vô ích này. Để hiểu quá khứ, cô phải bắt đầu từ hiện tại, từ trạng thái mà cô thấy mình hiện đang có. Đây là điều quan trọng cần nắm vững: Từ hiểu biết hiện tại về chính mình, bất kể nhiều ít ra sao, cô phải nhận thức được và lần theo những động thái của quá khứ. Khi đã hiểu chúng cô sẽ không bị vướng vào chúng một lần nữa. Con người di chuyển từ cái lồng này sang cái lồng khác, từ trở ngại này sang trở ngại khác, từ sự biết này tới sự biết khác, vì vậy họ không ngừng xung đột và không thể thoát khỏi phiền não. Có phải những cuộc truy hoan và giọt nước mắt cảm xúc, chủ nghĩa lãng mạn và sự hài lòng này là con đường khám phá chân lý, khám phá điều tối thượng không? Trong sự kéo căng cảm xúc đó, con người không phải lại thất vọng lần nữa sao? Sự mở rộng và thu hẹp không ngừng này, liệu có làm hao mòn một cách vô ích tính linh hoạt của suy nghĩ-cảm xúc không? Việc trau dồi mức độ linh hoạt cao nhất của suy nghĩ-cảm xúc để thấu hiểu cái thực hữu không cần thiết hay sao? Khi sự linh hoạt tinh tế này bị sử dụng hết, bị hao phí trong những giọt nước mắt lãng mạn và sự hài lòng thì làm sao nó có thể cảm nhận, thấu hiểu cái thực hữu, vốn cần một sự kiên định cao hơn? Sau khi đã phung phí bản thân mình, giống như rất nhiều người khác, giờ đây thông qua tự nhận thức, cô phải nhẹ nhàng và thận trọng bắt đầu hồi sinh tính nhạy cảm đã bị lãng phí. Trong sự nhận thức này, cô phải trau dồi việc quan sát những suy nghĩ-cảm xúc một cách chân thành và bao dung, mà không đồng hóa bản thân với chúng. Từ đây, việc phục hồi tính linh hoạt, sự hiểu biết sẽ xuất hiện.

Các lý thuyết và sự giảng giải, nghi thức và những lời phát biểu đều vô nghĩa: Chúng ngăn cản sự tự biết mình, chúng là những trở ngại và không trợ giúp được gì. Chúng tiêu trừ suy nghĩ-cảm xúc thay vì tập trung nó vào những gì thiết yếu. Chúng gây ra tình trạng chia rẽ và không hòa nhập. Chúng gây ra tinh thần hẹp hòi, bè phái và chia rẽ giữa mọi người, cùng với đó là sự hỗn loạn, xung đột và đối kháng.

Người ta đắm chìm vào chúng như một cách thoát khỏi bản thân, nhưng không có cách nào trốn khỏi chính mình, giải thoát khỏi chính mình, ngoại trừ tìm kiếm trong chính bản thân chúng ta. Nếu không tự biết mình thì sẽ có vô minh và vô minh nuôi dưỡng đau khổ, rối loạn, bất định và mệt mỏi. Tâm thức của một người chất đầy những lý thuyết và sự giảng giải, và rồi người đó cấu thành sự sống bằng sự chết. Đó là khi người ta buộc suy nghĩ-cảm xúc tuân theo một khuôn mẫu. Khi đó cái tốt hay cái xấu đều có tính ràng buộc thay vì tỉnh thức và thận trọng cho phép suy nghĩ-cảm xúc tuôn chảy vào sự hiểu biết sâu hơn, rộng hơn. Chướng ngại vật này, thông qua sợ hãi, tham lam và ác tâm lại một lần nữa gây ra xung đột và hỗn loạn.

Do đó, F. G. phải tự nhận thức và khám phá được lý do tại sao cô lại thu thập những lý thuyết, lời giảng này. Các nguyên nhân đơn thuần hợp lý về mặt trí tuệ, bề ngoài và lý tính dù có được tích lũy thì cũng vô giá trị, chúng sẽ không giải thoát suy nghĩ-cảm xúc của cô. Chính cô phải khám phá chúng thông qua nhận thức. Vì là sự thật nên chính sự khám phá này sẽ mang tính giải thoát và sáng tạo. Từ việc khám phá này, tư duy đúng sẽ xuất hiện trong sự tự biết mình. Sự thèm muốn được tiêu trừ thông qua tư duy đúng; mà thoát khỏi sự thèm muốn là đức hạnh. Và khi tâm thức tiếp cận sự vĩnh cửu, tất cả mong muốn bị dập tắt.