← Quay lại trang sách

Chương 59 CHỦ THỂ QUAN SÁT VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC QUAN SÁT

S. J. giải thích rằng tuy đã hành thiền được vài năm nhưng anh chẳng có tiến bộ gì cả. Anh chỉ có thể giữ được trạng thái định tâm trong vài phút nhưng không hiểu tại sao gần đây thậm chí điều đó cũng dường như không đáng kể. S. J. cho biết mùa hè năm nay anh đã nghe tôi giải thích nội dung về thiền định nên không biết liệu chúng tôi có thể trao đổi nhiều hơn về nó không?

Việc hiểu quá trình của chủ thể quan sát và đối tượng được quan sát không quan trọng sao? Chúng không phải là một hiện tượng chung sao? Khi không có hiểu biết, chủ thể quan sát, tức là đối tượng chú ý, và đối tượng được quan sát, hay thứ được chú ý, bao giờ cũng tạo ra trạng thái nhị nguyên. Và chẳng có hy vọng gì trong tính nhị nguyên cả.

Khi hành thiền, anh không thấy chủ thể tạo hình ảnh thường xuyên bám vào các hình ảnh của họ, chủ thể làm ra khuôn thức và những khuôn thức của họ bám chặt nhau hay sao? Chính chủ thể sáng tạo này và sản phẩm của chủ thể phải được hiểu tường tận và vượt qua. Nếu không hiểu được chủ thể tạo hình ảnh, chủ thể làm thành khuôn thức, chủ thể sáng tạo đó thì thiền định chỉ củng cố, tăng cường chủ thể tạo dựng, tức là bản ngã.

Thiền định của trái tim là sự hiểu biết, không thể nào có hiểu biết khi không tự biết mình. Nếu không thấu hiểu chính mình, cũng như những tư tưởng, động cơ, ý hướng và bản năng của mình thì suy nghĩ-cảm xúc của bạn sẽ dựa vào đâu? Nếu không hiểu chính mình thì làm sao bạn biết suy nghĩ-cảm xúc của mình là đúng hay sai? Nếu không tự biết mình thì bạn có thể có sự am hiểu khác nào nữa? Bạn là tiêu điểm của cả cuộc đời, trong bạn là sự bắt đầu và kết thúc, bạn là toàn bộ sự tồn tại, và để hiểu cuộc đời phức tạp, bạn còn có thể bắt đầu từ đâu ngoại trừ với chính mình? Hiểu được bản ngã là phần thưởng của chính nó, và trí tuệ sẽ được thu thập khi khám phá cái đúng trong quá trình của bản ngã. Sự tự nhận thức không ngừng về mỗi suy nghĩ-cảm xúc sẽ tuôn chảy vào các hồ thiền định sâu lắng và tĩnh lặng. Sự tuôn chảy này, sự bung nở này sẽ ngừng lại khi suy nghĩ-cảm xúc chỉ trích hay chấp nhận, bào chữa hay phủ nhận, hoặc khi có sự đồng nhất hóa. Sự đồng nhất hóa nuôi dưỡng tính thiếu suy nghĩ và phiền não. Thông qua nhận thức không ngừng này, việc tái giáo dục là bắt buộc với tất cả suy nghĩ-cảm xúc-hành động cũng như tất cả các giá trị. Nếu không có việc tái giáo dục không chọn lựa này, suy nghĩ-cảm xúc không thể bước vào những địa hạt sâu hơn của thiền định.

Tư duy phải leo lên cái thang đạo đức và các nấc thang phải mòn đi khi được sử dụng. Bởi vì ý thức được về những nấc thang đó chính là tồn tại mà không có đạo đức, không có phẩm hạnh. Thoát khỏi sự thèm muốn là đức hạnh; sự thèm muốn này chủ yếu tự biểu hiện thành những thứ như thú nhục dục, đam mê vật chất, sự bất tử cá nhân và danh vọng, hoặc thành quyền lực, sự thần bí và phép lạ. Tư duy muốn tự giải thoát khỏi sự thèm muốn thì nó phải thật thà, trung thực. Nó phải hiểu lòng trắc ẩn, hiểu tình thương, mà tình thương sẽ không tồn tại khi có sự ràng buộc và sợ hãi. Phải có tính giản dị của cuộc đời, sinh kế đúng và sự giải thoát khỏi những thứ gây xao lãng, khỏi những ham mê,… Và khi tư tưởng leo lên cái thang đó, nó sẽ bước vào địa hạt của ký ức. Đa phần suy nghĩ-cảm xúc của chúng ta không trọn vẹn, không được suy nghĩ kỹ càng - xem xét thấu đáo cho tới tận cùng; không có sự hoàn tất nào, mà cái gì không trọn vẹn, chưa hoàn thành thì cứ phải tiếp nối. Chính sự tiếp nối này là ràng buộc về thời gian. Do đó, cái gì có sự tiếp nối thì không thể nhận thức được cái vô tận, cái vĩnh cửu.

Thông qua việc nhận thức không ngừng và thông qua sự tăng cường của nhận thức trong thời gian tỉnh thức mỗi ngày, các tầng của ý thức sẽ sản sinh ra nội dung và hiểu biết tiềm ẩn của chúng. Lúc đó, các giấc mơ trở nên hiếm hoi hơn và việc diễn giải chúng cũng trở nên rộng hơn và đơn giản hơn. Bởi vì các tầng của ý thức đã bị thâm nhập khi chúng tự bộc lộ bản thân, nên trạng thái ngủ cũng quan trọng như trạng thái tỉnh thức. Lúc đó, nhận thức trong thời gian tỉnh thức tuôn chảy vào nhận thức trong khi ngủ, giống như nhận thức của giấc ngủ tuôn chảy vào nhận thức của cả ngày.

Do đó, nhờ tự nhận thức không ngừng, sự tự biết mình sẽ bung nở và từ đó tư duy đúng xuất hiện. Tư duy đúng là nền tảng của thiền định. Không có tự biết mình thì không thể có thiền định và không có nhận thức nhờ thiền định thì sẽ không thể tự biết mình. Khi suy nghĩ-cảm xúc tĩnh lặng và không dò được, khi nó là sự trống không đầy sáng tạo, khi chủ thể quan sát và đối tượng được quan sát hoàn toàn dừng lại, lúc đó sẽ có cái không thể gọi tên, cái không thể đo lường.

S. J. nói: “Tôi đã lắng nghe rất chăm chú và tôi nghĩ mình đã hiểu. Tôi đã và đang thực hành tập trung và tôi để ý thấy ông chưa bao giờ đề cập đến trạng thái tập trung. Ông vui lòng nói một chút về nó được không?”.

Với hầu hết mọi người, tập trung chủ yếu bao gồm chú ý đến điều gì đó: công việc, trau dồi đức hạnh, chú ý vào một biểu tượng, vào một hình ảnh… – người tập trung và thứ được tập trung. Ở đây, bao giờ cũng có một quá trình nhị nguyên – cái “tôi” và cái “không phải tôi”, mà trong quá trình nhị nguyên đó có sự va chạm, căng thẳng, đối lập. Chủ thể suy nghĩ tách khỏi tư tưởng đó, chủ thể suy nghĩ cố gắng hình thành suy nghĩ của mình. Chủ thể quan sát tìm hiểu, xem xét đối tượng được quan sát. Do đó, bao giờ cũng có sự xung đột của tính nhị nguyên, mà trong đó, sự tập trung sẽ nới rộng thêm khoảng cách tách biệt, để phân ly, để bồi đắp cho bộ phận, xa lìa khỏi cái toàn thể, cái thực hữu.

Liệu chủ thể suy nghĩ có tách khỏi suy nghĩ của mình không? Hai điều này không phải là một hiện tượng chung sao? Khi chủ thể suy nghĩ cố gắng định hình suy nghĩ của mình để tạo ra một khuôn mẫu trong khi không hiểu được chính mình thì tư duy sẽ dẫn tới ảo tưởng. Việc tập trung vào suy nghĩ mà không hiểu gì về chủ thể suy nghĩ không bao giờ có thể mang lại sự hiểu biết về cái thực hữu. Khi không hiểu biết về chủ thể suy nghĩ thì kết cục là vô minh và phiền não. Để hiểu chủ thể suy nghĩ cần phải tìm hiểu suy nghĩ của họ, không phải vì bản thân suy nghĩ, mà là để khám phá chủ thể suy nghĩ. Nhờ nhận thức được về mỗi suy nghĩ-cảm xúc, chủ thể sáng tạo của nó, mà nguồn gốc được khám phá. Lúc đó, chủ thể sáng tạo và cái được tạo ra là một. Khi ấy, sự tập trung sẽ không dựa vào bất cứ thứ gì – điều vốn chỉ gây ra ảo giác – mà nó sẽ là bản thân sự tập trung thôi. Chủ thể suy nghĩ dừng tạo tác và vì vậy có sự tĩnh lặng đầy đủ, hoàn toàn. Đó là tĩnh lặng của sự hoàn thành. Đó là hiện hữu, đó là vô tận, vĩnh cửu.