Chương 60 XUNG ĐỘT GIỮA BẢN NĂNG VÀ SỰ KHUÔN ĐỊNH
K. J. muốn biết tại sao từ một giai đoạn nhất định trong trong đời cô đã được một tiếng nói bên trong dẫn dắt. Qua nhiều năm, tiếng nói này đã thay đổi và định hình toàn bộ diễn biến cuộc đời cô. Chính tiếng nói đó đã yêu cầu cô tới gặp chúng tôi. Cô trở nên lệ thuộc vào nó trong mọi suy nghĩ và hành động, và cô đã phục tùng nó. Tiếng nói cho cô biết rằng nó sẽ dừng lại sau khi cô gặp chúng tôi, và cô đã từng tới đây rồi; giờ đây, tiếng nói đó đã im bặt. Tiếng nói đó là gì? Nó có thật hay không? Có phải nó là một thực thể siêu phàm nào đó đã chiếm hữu cô? Tại sao có trạng thái nhị nguyên này trong cô?
Không phải trong hầu hết mọi người đều có tính nhị nguyên này hay sao? Họ có thể sử dụng những thuật ngữ khác nhau, các tên gọi khác nhau – chẳng hạn cái tôi cao cả và thấp hèn, cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai… – nhưng về bản chất, nó là xung đột của những trạng thái đối lập. Sự xung đột này có các dạng thức khác nhau, tạo ra những nét riêng biệt và khuynh hướng khác nhau – xung đột giữa bản năng và sự khuôn định, giữa cái bẩm sinh và cái thụ đắc được, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Sự xung đột này gây đau khổ, suy sụp nên phải được giải quyết, nếu không sẽ không có bình an, không có hạnh phúc mang tính sáng tạo. Và cái nội tại đưa ra gợi ý thông qua những giấc mơ, thông qua những cảnh báo, thông qua những tiếng nói, tùy theo mức độ của khủng hoảng. Những tiếng nói, giấc mơ, những điềm báo đều từ chính chúng ta mà ra. Chúng ta là những mặt đối lập: Chúng ta là cái ngoại tại và cái nội tại, sự khuôn định và bản năng… Chúng ta thích lừa bản thân suy nghĩ rằng tiếng nói đó là của một thực thể siêu phàm. Nó tâng bốc chúng ta, làm chúng ta thấy mình quan trọng, nhưng vấn đề cốt lõi của xung đột thì vẫn còn đó. Chúng ta phải bận tâm tới điều này và đừng bám víu vào bất cứ ảo tưởng làm hài lòng nào. Nhất thiết không được phụ thuộc vào nó, bởi vì nó nuôi dưỡng nỗi sợ hãi, sự thiếu tự tin thật sự, mà tự tin thật sự vốn không mang tính công kích hay tham vọng cạnh tranh.
Nếu tất cả chúng ta đều tỉnh giác, thì đa phần đều phân biệt được điều tốt từ cái xấu xa. Chúng ta biết một cách “bản năng”, “điều gì đó” mách bảo chúng ta, nhưng sự khuôn định, tức là yếu tố ngoại giới, lại quá lớn, quá ồn ào và đòi hỏi. Vì vậy, chúng ta đầu hàng trước nó. Yếu tố ngoại giới, tức sự khuôn định, đã được chúng ta tạo ra bằng lòng tham, ác tâm và sự vô minh, đồng thời chúng ta cũng đã tạo ra cái nội tại – cái bản năng. Chúng ta đồng thời là chủ thể suy nghĩ và suy nghĩ. Chúng ta thích đồng hóa mình với cái này và không thừa nhận cái kia. Việc đồng hóa và từ chối này ngăn cản việc hiểu được mối xung đột đó. Chúng ta phải hiểu cơ chế phức tạp của chủ thể suy nghĩ và suy nghĩ của chủ thể ấy. Có phải hai điều này tách biệt không? Khi tìm hiểu tư tưởng, chẳng phải chủ thể suy nghĩ sẽ lộ diện sao? Chẳng phải cơ chế phức tạp này vừa là chủ thể suy nghĩ vừa là suy nghĩ của họ hay sao? Không có cái này, thì cũng không có cái kia. Toàn bộ cơ chế này là bản ngã, chủ thể suy nghĩ và suy nghĩ, cái tôi cao cả và thấp hèn, vô số sự phân chia và tái phân chia. Chỉ cần bản ngã – tức là kết quả của sự thèm khát trong quá khứ và trong hiện tại – còn tồn tại, thì còn phải có tính nhị nguyên, cái “tôi” và cái “không phải tôi”, còn có xung đột của những trạng thái đối lập. Sự thèm khát này có nhiều dạng thức, từ tinh vi đến hiển nhiên dễ thấy: thú nhục dục, ham mê vật chất hay sự thịnh vượng và tính tiếp nối của cá nhân.
Thông qua nhận thức không ngừng về mỗi suy nghĩ-cảm xúc, thông qua việc suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo, sự thèm khát và xung đột không ngừng cháy bỏng của nó sẽ chấm dứt. Sự đồng nhất hóa – dù tán thành hay khước từ – sẽ ngăn cản sự trọn vẹn của suy nghĩ-cảm xúc. Chỉ suy nghĩ-cảm xúc được trọn vẹn ta mới có thể thoát khỏi sự thèm muốn. Chỉ lúc đó mới có niềm vui và bình an.