← Quay lại trang sách

Chương 5

Nhà hàng Antoine’s, bừng sáng với vai trò điểm hẹn về đêm; lấp lánh, rực rỡ, huyền ảo; chật kín khách khứa, rộn rã tiếng cười, xèo xèo tiếng rượu Champagne; sáng choang với 500 ngọn đèn khí đốt, treo khắp trần nhà và các bức tường, trong những chiếc lồng pha lê. Nhà hàng đẹp và nổi tiếng nhất bên này đại dương; linh hồn của Paris hiện lên quyến rũ từ bùn Tây châu thổ.

Dãy bàn cưới chạy dọc suốt một bên nhà hàng, thực khách chỉ ngồi một bên, bên kia để trống để họ có thể quan sát phần còn lại của căn phòng… và phần còn lại của căn phòng có thể quan sát họ.

Lúc này đã hơn 11 giờ, khăn ăn nhầu nhĩ chất đống, hoa tươi tả tơi, ly cốc ngả màu với những lượt rượu vang trắng và đỏ được rót không ngừng; Champagne, rượu anh đào và những chén nhỏ rượu ngọt Bénédictine dành cho các bà các cô, mức uống của hai bên không giống nhau. Và ở bàn trung tâm, có một chiếc bánh tuyệt đẹp, trắng như tuyết, vẩy đường, xếp nhiều tầng, đã bị ăn chỉ còn một nửa. Nhưng ở trên đỉnh cao nhất vẫn còn nguyên vẹn, một đôi búp bê cô dâu chú rể, chàng trong bộ lễ phục nhỏ xíu bằng vải pô-pơ-lin đen, nàng đội khăn trùm cô dâu bằng vải tuyn trải dài.

Đối diện chúng là cặp đôi đích thực, ở kích thước thật; ngồi kề vai, hai bàn tay âm thầm nắm chặt dưới gầm bàn, lắng nghe một bài phát biểu tán dương dài lê thê. Đầu người đàn ông ngẩng cao ra vẻ chú ý theo phép lịch sự; mái đầu người phụ nữ mơ màng dựa vào vai anh.

Anh đã ăn vận phù hợp với buổi tối nay, và có một chuyến đi chớp nhoáng đến cửa hiệu quần áo (ban đầu do cô đề xuất, nhưng về sau là anh kiên quyết) trước khi đến đây, để thay đổi trang phục cho cô từ bộ đồ đi đường sang một tác phẩm lộng lẫy bằng xa-tanh trắng sáng mờ, những đóa dành dành trắng đính trên tóc và cổ. Trên ngón tay thứ ba bàn tay trái là chiếc nhẫn cưới mới bằng vàng; ngón tay thứ tư đeo chiếc nhẫn kim cương, món quà cưới người chồng tặng cho vợ, biểu trưng cho sự đính ước đã hoàn thành thay cho chiếc nhẫn trước đó.

Và đôi mắt cô, như bất cứ một người bỡ ngỡ nào, cứ liếc qua liếc lại những món trang sức mới tinh này. Nhưng chúng thường xuyên chiếu vào ngón tay nào, thứ ba hay thứ tư, thì khó ai biết được.

Hoa, rượu, những khuôn mặt tươi cười, những lời chúc tụng sức khỏe và hạnh phúc. Bắt đầu hai cuộc sống mới. Nói đúng hơn là kết thúc hai cuộc sống, bắt đầu một cuộc sống mới.

“Chúng ta trốn đi thôi?” Anh thì thầm với cô. “Gần 12 giờ rồi.”

“Vâng. Hãy khiêu vũ thêm một điệu đã. Hãy nói dàn nhạc chơi lại. Rồi chúng ta sẽ lẻn đi, không quay về bàn nữa.”

“Ngay khi Allan phát biểu xong,” anh tán thành. “Nếu anh ấy có ý định đó.”

Allan Jardine, cộng sự của anh, đã sa đà vào một diễn văn chúc mừng rối rắm mà có vẻ không tìm được lối ra. Nó đã diễn ra được mười phút; mà tưởng chừng như bốn mươi phút.

Vợ của Jardine, ngồi cạnh ông chồng, và chỉ hiện diện sau trận đôi co bí ẩn song rất gay gắt trong nhà, mang vẻ mặt khắc khổ và bất mãn. Bất mãn điều gì đó, nhưng cố gắng giữ vẻ hòa nhã, vì lợi ích của chồng mình. Bất mãn trước nhan sắc, hoặc tuổi trẻ của cô dâu, hay có lẽ là những hoàn cảnh không chính thống trong quá trình tìm hiểu, yêu đương. Hoặc có lẽ là việc Durand cuối cùng đã lấy vợ, sau khi đã chờ đợi chừng ấy năm, mà không chịu chờ thêm vài năm nữa cho con gái bà lớn lên. Một mục tiêu hấp dẫn mà ngay chồng bà cũng chẳng mảy may hay biết. Và sẽ không bao giờ biết.

Durand lấy một mảnh giấy nhỏ, viết “Hãy chơi một điệu waltz nữa.” Rồi anh kẹp nó vào một tờ tiền, ngoắc phục vụ, đưa nó cho cậu ta chuyển tới dàn nhạc.

Vợ Jardine lén giật mép áo chồng, để thúc ông kết thúc bài diễn văn.

“Allan,” bà rít lên. “Đủ rồi đấy. Đây là tiệc cưới, không phải đại hội.”

“Anh sắp xong rồi,” ông rỉ tai hứa.

“Xong ngay bây giờ cho tôi,” mệnh lệnh được đưa ra bằng cái quét tay như máy chém của bà.

“Và tôi xin chúc cặp đôi mới cưới trăm năm hạnh phúc. Julia - cho phép tôi,” với một cái nghiêng đầu về phía cô, “và Louis.”

Những chiếc ly nâng lên, rồi lại hạ xuống. Jardine cuối cùng cũng ngồi xuống, lau trán. Còn vợ ông há miệng giơ tay quạt lấy quạt để, như thể tống khứ mùi đồ ăn tệ hại.

Tiếng nhạc cất lên.

Durand và Julia đứng dậy, sự sốt sắng của họ ắt sẽ bị chê trách nếu như nó không quá dễ hiểu như thế.

“Chúng tôi xin phép được nhảy điệu này.”

Và Durand nháy mắt với Jardine, ý bảo ông đừng có trông chờ họ quay về chỗ ngồi.

Sự việc được Jardine truyền đạt cho vợ ngay lúc cặp đôi rời bàn. Khi ấy bà vợ cũng tỏ vẻ khó chịu, ngoài những cái khó chịu đã sẵn có về sự kiện này, và cầm ly rượu lên nhấp một ngụm đoan trang, nghiêm nghị với cái miệng mím chặt.

Những cây vĩ của dàn vĩ cầm đồng loạt đưa lên, hạ xuống, và chúng trôi vào điệu waltz của bài Romeo và Juliet.

Họ đứng đối diện nhau một lúc, anh và cô, trong màn dạo đầu trang trọng thường có. Rồi cô cúi xuống nhấc vòng váy xếp nếp lên, anh dang hai tay, và cô bước vào vòng tay anh.

Điệu waltz bắt đầu, điệu waltz nhanh nhất trong tất cả những điệu nhảy đôi. Xoay vòng, xoay vòng và xoay vòng, đảo chiều, và xoay vòng, xoay vòng lần nữa, theo hướng khác. Những chiếc bàn và những gương mặt quay tít quanh họ, như thể họ đang đứng im giữa một xoáy nước, những ngọn đèn khí đốt lóe lên trên những bức tường và trần nhà như những đuôi sao chổi.

Cô uốn cong cổ, hơi ngả đầu về phía sau, nhìn lên mắt anh, như muốn nói. “Em đang ở trong tay anh, tùy ý anh. Anh đi đâu, em sẽ theo đấy. Anh quay đi đâu em sẽ theo sát.”

“Em có hạnh phúc không, Julia?”

“Gương mặt em chẳng đã nói với anh sao?”

“Lúc này em có hối hận vì đã đến New Orleans không?”

“Còn nơi nào khác ngoài New Orleans sao?” Cô hỏi đầy quyến rũ.

Xoay vòng, xoay vòng và xoay vòng; chỉ có hai người, dù xung quanh họ là đám đông nhộn nhịp.

“Cuộc sống của chúng ta sẽ như điệu waltz này, Julia. Cũng ngọt ngào, êm ái và hòa thuận. Không bao giờ nhầm hướng, không bao giờ có một nghịch âm. Kề sát nhau như thế này. Một tâm hồn, một trái tim, một cơ thể.”

“Một điệu waltz cuộc đời,” cô thì thầm say sưa. “Một điệu waltz bay bổng. Điệu waltz không bao giờ kết thúc. Điệu waltz trong ánh nắng, dưới bầu trời xanh thẳm, trong sắc vàng… và trong màu trắng tinh khôi.”

Cô nhắm mắt, như chìm trong ngây ngất.

“Ở đây có lối ra. Không có ai nhìn chúng ta cả.”

Họ trượt mũi chân dừng lại một cách khéo léo, như những vận động viên trượt băng. Họ tách ra, liếc nhanh về bàn tiệc bị che khuất khá nhiều bởi những cặp khiêu vũ chắn giữa. Rồi anh để cô đi trước, vòng qua những cây cọ, một tượng nữ thần bằng đồng, một cây cột khía rãnh, ra khỏi phòng ăn chính và vào một gian rửa bát đĩa, sực nức mùi đồ ăn nóng hổi, ồn ào tiếng nói đâu đó bên cạnh. Cô cười rúc rích như con mèo nhỏ, đi tới chỗ họ, dừng lại nhìn vẻ kinh ngạc của họ.

Anh nắm tay kéo cô đi theo, chạy những bước nhỏ hân hoan, ra một lối đi bên ngoài men hông nhà. Và từ đó họ ra đến đường cái. Anh vẫy tay gọi một cỗ xe ngựa, và lát sau anh đã ngồi cạnh cô trong xe, cánh tay choàng qua người cô che chỏ.

“Tới đường St. Louis,” anh tự hào ra lệnh. “Khi nào dừng, tôi sẽ cho anh biết.”

Và khi những hồi chuông của nhà thờ lớn St. Louis gần đó bắt đầu chậm rãi ngân lên báo hiệu nửa đêm, Louis Durand và cô dâu của anh đang phóng nhanh về ngôi nhà mới.