Chương 17
Anh không biết mình đã ngồi nhìn trân trân nó trong bao lâu. Thời gian không còn ý nghĩa. Anh đọc đi đọc lại dòng chữ. “Nét chữ của một người không quen biết. Của một người không quen biết. Một người không quen biết.” Cho đến khi nó biến thành lưỡi cưa kêu vo vo rạch não anh làm đôi.
Rồi sự mê man đột ngột chấm dứt, nhường chỗ cho hoảng loạn. Anh vùng dậy khỏi chiếc ghế xoay, khiến nó đổ kềnh loảng xoảng ra sau. Anh giúi bức thư vào túi, vội vã gay gắt như thể nó có lửa, làm bỏng những ngón tay anh.
Anh chạy ra cửa, quên mất mũ. Chạy lại lấy mũ, rồi chạy ra cửa lần nữa. Ở cửa anh va vào thằng bé giúp việc đang bước đến sau khi nghe tiếng ghế đổ. Anh gần như hất nó sang một bên, cùng lúc chụp kịp hai vai nó. Anh lao đi tiếp, nói vọng lại, “Bảo Jardine phụ trách, tôi về nhà đây!”
Ra ngoài đường, anh lập tức giơ tay khua loạn xạ bốn phía, như đang chiến đấu với đám muỗi vô hình, hi vọng vẫy được xe giữa con đường vắng. Và khi rốt cuộc cũng vẫy được một chiếc xe, sau một phút tưởng chừng như một giờ khắc khoải chờ đợi, anh chạy theo và nhảy lên xe trước khi nó dừng lại; đứng thẳng ở giữa như người đánh xe ngày nay, vươn mình qua vai người xà ích rồi đọc địa chỉ trong sự căng thẳng đến quẫn trí.
“Đường St. Louis, nhanh lên! Tôi phải đến đó ngay.”
Những nan hoa bánh xe nhòe đi thành những chiếc đĩa cứng xoay tròn, đường phố New Orleans xung quanh trôi về phía sau, rung rung, như những phông cảnh chiếu qua dòng nước chảy.
Anh đánh vào sườn mình, như thể anh là con ngựa. “Nhanh nữa lên, ông xà ích! Ông có đến đó được không thế?”
“Giờ chúng ta đang bay đấy, thưa ngài. Dễ tông vào người đi đường lắm.”
“Vậy thì cứ tông đi! Miễn là đưa tôi đến nơi!”
Anh nhảy khỏi xe y như lúc nhảy lên nó, đập những đồng xu trong lòng bàn tay với ra sau đặt vào bàn tay chìa ra của người xà ích, chạy bổ tới cửa nhà như định quăng mình xô đổ nó.
Thím Sarah mở cửa lập tức đến ngạc nhiên. Hẳn là bà đã ở ngay tiền sảnh, đằng sau cửa.
“Cô ta có nhà không?” Anh ném câu hỏi vào mặt bà. “Cô ta có ở nhà không?”
“Ai cơ?” Bà lùi lại, khiếp hãi trước sự dữ tợn của câu hỏi. Nhưng sau đó bà trả lời, vì nó chỉ có thể nhắm đến một người. “Cô Julia ấy à? Cô ấy đi suốt buổi chiều. Cô ấy bảo là đi mua sắm và sẽ về sớm. Lúc đó khoảng 1 giờ. Kể từ lúc đó vẫn chưa thấy cô ấy về.”
“Lạy Chúa!” Anh rầu rĩ thốt lên. “Tôi đã e sợ điều đó. Chết tiệt, bức thư đã không đến sớm một giờ!”
Rồi anh trông thấy một cô gái trẻ co ro ngồi chờ trên chiếc ghế không tựa sát tường. Cô ăn mặc đơn sơ, ôm một chiếc hộp lớn. Cô rúm người ra đằng sau, mặt mũi tái mét trước câu chửi rủa của anh.
“Ai đấy?” Anh hạ giọng hỏi.
“Cô bé ở hiệu may, được cử đến để đưa cô Julia mặc thử chiếc váy được đặt may. Cô bé nói rằng nó được hẹn lúc 3 giờ. Và đã chờ hai tiếng rồi.”
Vậy thì trong chuỗi lịch trình bình thường, cô ta không định ra ngoài hôm nay, anh sực nghĩ. Và giờ cô ta làm thế chứng tỏ… “Cuộc hẹn được ấn định khi nào?” Anh truy hỏi, khiến cô gái càng co rúm hơn.
“Mấy… mấy ngày trước,” cô ta lắp bắp. “Tôi nghĩ là tuần trước, thưa ông.”
Anh chạy hết tốc lực lên cầu thang, quên sạch giữ ý, nghe thấy sau lưng tiếng thì thào khôn ngoan của thím Sarah, “Tốt hơn cháu nên về đi. sắp xảy ra chuyện lớn rồi, hôm khác hãy quay lại.”
Anh đứng trong phòng ngủ, thở hổn hển vì chuyến leo bộ gấp gáp nhưng mặt khác cũng không cử động nổi trong chốc lát, nhìn xung quanh trong nỗi tuyệt vọng câm lặng. Mắt anh chạm phải chiếc rương. Chiếc rương chưa từng được mở. Nó được che phủ để ngụy trang, nhưng giờ anh đã biết, kể từ ngày Chủ nhật hôm đó, nó nhằm mục đích gì. Anh giật mạnh lớp bọc, những chữ cái lại hiện ra. J.R bằng sơn màu đỏ tươi.
Anh xoay người, lao ra ngoài, chạy xuống cầu thang. Nhưng lần này anh chỉ tới nửa đường, dừng ở lưng chừng cầu thang.
Cô bé thợ may học việc đứng ở cửa, chuẩn bị ra về, đang chuyển chiếc hộp cho thím Sarah. “Hãy nói với bà Durand rằng cháu… cháu xin lỗi vì đã hiểu lầm, cháu sẽ quay lại vào giờ này chiều mai, nếu thuận tiện.”
“Ra ngoài tìm cho tôi một thợ khóa!” Anh hét gọi từ giữa cầu thang, như quả đạn pháo, phá tan cuộc trò chuyện từ biệt nhỏ nhẹ của họ. Cô thợ may nhút nhát chạy biến, thím Sarah vừa đi ra vừa với tay đóng cửa để thực hiện mệnh lệnh.
Rồi anh lại đổi ý trước khi bà đi. “Không, khoan đã! Như vậy sẽ mất thời gian. Đem cho tôi búa và đục. Chúng ta có mấy thứ đó không?”
“Tôi nghĩ là có.” Bà chạy gấp trở lại.
Khi bà đưa chúng cho anh, anh lại xông lên tầng. Anh quỳ xuống, lao mình vào chiếc rương với một sức mạnh cuồng bạo, miệng mím thành một đường trắng bệch; anh kê chiếc đục vào khe hở quanh cái khóa, nện búa không thương tiếc. Lát sau cái khóa bật tung, lủng lẳng dính một nửa vào khung.
Tiếng rơi của búa và đục tạo thành một âm trầm nặng nề trong sự tĩnh lặng mới lập lại của căn phòng, như hồi chuông báo tử buồn thảm.
Anh giật những chốt bên sườn xuống, tháo sợi dây da kiểu cổ buộc ở giữa, đứng dậy nhấc lên, và nắp rương hơi lồi, bật ra sau với cái rùng mình.
Mùi băng phiến tỏa ra, như luồng hơi thở phả vào mặt anh.
Đó là chiếc rương của một người ngăn nắp, kĩ tính, đoan trang. Những khối đồ dùng nằm đối xứng, không cái nào chệch ra ngoài một li, những khe hở ở giữa được chèn khéo léo bằng những chiếc khăn tay và những món đồ mỏng nhẹ, khiến những chồng đồ đạc không bị xô lệch khi đi đường.
Ngăn hòm trên cùng chỉ đựng những đồ lót riêng tư, của cả ngày và đêm; tất cả đều tiện dụng hơn là đẹp đẽ. Những chiếc áo choàng ngủ vải flannel màu vàng, váy lót vải flannel, những đồ mặc ngoài bằng len dày thắt dải rút mà anh không cần cố công tìm hiểu tính chất của chúng.
Trong phút chốc đôi tay anh đã tàn phá nó đến không thể nhận ra.
Anh nhấc phần bên trên sang một bên, và thấy những lớp trang phục xếp ngăn nắp phía dưới. Chúng mang vẻ khiêm tốn hơn bất cứ trang phục nào cô đã mua sau khi đến đây; màu nâu và xám, với những chiếc cổ tròn màu trắng nhã nhặn, vải alpaca đen, một chiếc khăn choàng len sọc vuông thanh nhã màu xanh lam sẫm hoặc xanh lục, không có màu nào sáng hơn.
Anh nhặt cái trên cùng lên, rồi cái thứ hai.
Anh đứng giữa hai món đồ, mỗi tay cầm một cái giơ lên, nhìn hết cái này sang cái kia.
Ánh mắt anh chợt bắt gặp hình ảnh mình, trong tấm gương lớn đối diện cửa tủ quần áo của cô. Anh bước ra khỏi đằng sau chiếc rương, nhìn lại. Có gì đó không đúng gợn trong mắt anh. Anh không thể nói đó là gì.
Anh lùi một bước cùng hai chiến lợi phẩm, để góc nhìn rộng hơn. Và đột ngột, trước sự xê dịch ấy, nó trở nên rõ ràng. Anh để hai bàn tay đang cầm chúng, ngang vai mình. Chúng buông thẳng xuống sàn, chạm vào nó, còn rúm lại vài nếp gấp thừa.
Trong ký ức, anh thấy cô bên cạnh, trong gương. Cô xuất hiện ở đó một lúc, trong sự tái hiện ngắn ngủi. Đỉnh đầu cô chỉ hơi vượt qua vai anh, khi cô vấn tóc lên.
Anh thả rơi hai bộ đồ như hồn ma, gần như trong nỗi khiếp sợ. Anh đến bên tủ quần áo, cùng lúc mở toang cả hai cánh. Trống không, thanh treo bằng gỗ trơ khấc bắc ngang phía trên. Mùi hương violet vương vất và chỉ có thế.
Sự khám phá này là cú rơi cực điểm so với cuộc khám phá trước đó. Nỗi sợ hãi thực sự của anh nằm trong những chiếc váy dài ở đây, không phải những chiếc đã biến mất.
Anh chạy ra cầu thang, cúi xuống để bên dưới nhìn thấy, gọi thím Sarah cho đến khi bà chạy vào với nỗi khiếp sợ tái diễn. “Vâng, thưa cậu! Vâng, thưa cậu!”
“Cô gái đó. Cô ta để lại thứ gì? Có phải của bà Durand không?”
“Là chiếc váy họ mới may cho cô ấy.”
“Mang lên đây cho tôi. Nhanh lên!”
Anh quay vào phòng cùng chiếc hộp, mở tung bìa các-tông, lôi nó ra. Sặc sỡ, vui mắt, những dải ruy băng màu đỏ ánh xanh ở phần eo. Mắt anh không để ý đến điều đó.
Anh nhặt chiếc váy trong rương đã bị vứt xuống sàn. Anh trải nó ra giường, vuốt phang như tờ giấy, trải rộng hai ống tay, kéo phân thân váy xuống hết chiều dài.
Rồi anh đặt chiếc váy mới, vừa được đưa đến, lên trên. Sau đó, anh lùi lại nhìn và hiểu ra.
Hai chiếc váy không có điểm nào chung. Ống tay áo dài hơn một gấu. Phần ngực đầy hơn, tràn ra ngoài một đường cong ở mỗi bên về kích thước. Vòng eo nhỏ bằng gần nửa. Người mặc chiếc váy này không thể mặc vừa chiếc kia. Và rõ ràng nhất là một phần vải tiếp tục chạy xuống bên dưới, khoảng vài phân, nơi chiếc váy kia đã kết thúc.
Ngay cả anh cũng biết rằng chỉ có một chiều dài cho mọi chiếc váy, đó là chiều dài chạm đất. Không có chiều dài khác. Độ dài ngắn không dựa vào thời trang, mà dựa vào chiều cao của người mặc.
Và trong chiếc váy ngắn và nhỏ phía trên này vẫn lấp lánh những chiếc ghim đánh dấu các số đo mà anh biết, nó được lấy từ người cô chưa đầy một tuần trước, đang chờ được may lượt cuối cùng.
Những bộ trang phục từ St. Louis…
Mặt anh dần tái nhợt, và có một nỗi sợ hãi kì lạ trong tim mà từ trước đến nay anh chưa hề biết tới. Anh đã biết từ lúc trở về nhà ít phút trước, nhưng bây giờ, trong thời khắc này, anh đã chứng thực nó, và không cách nào thoát khỏi bằng chứng ấy.
Những bộ trang phục đến từ St. Louis là của một người khác.