Chương 20
Căn phòng là một bức tranh tĩnh vật. Rất có thể nó được vẽ trên toan, sau đó dựng lên cho khô; kích thước thật, đồng nhất với đời thực trong từng sắc thái và chi tiết nhỏ, tuy nhiên nó là một bản sao nghệ thuật, không phải nguyên bản.
Ô cửa sổ tỏa ra một quầng sáng bởi ánh mặt trời sắp lặn, như thể có một vệt lửa cháy ngay bên ngoài, soi rực trần nhà và bức tường đối diện. Tấm thảm trên sàn nhấp nhô gợn sóng, như bị những bước chân lảo đảo của ai đó đặt nhầm chỗ, hoặc thậm chí là một, hai cú ngã trời giáng, rồi bị để mặc. Trên thảm có một vết đen hình con cua loang rộng, như thể một lượng lớn rượu mạnh đã đổ xuống.
Chiếc giường ẩm ướt, từng khiến một chú rể đỏ mặt; lúc này sẽ khiến bất cứ ai khó tính phải đỏ mặt, nom như đã nhiều ngày không được dọn. Ga trải giường màu xám bị kéo tuột một bên khỏi bộ khung, vắt nửa trên giường, nửa dưới sàn bên kia. Một chiếc giày đàn ông nằm lăn lóc bên cạnh, như thể con bốc đồng nào đó đã khiến nó bị vứt bỏ, hoặc khiến bạn đồng hành của nó được xỏ vào, tàn tạ và bạc màu trước khi nó được xỏ hoàn chỉnh.
Những bông lưu ly trên giấy dán tường màu hồng; giấy dán tường đến từ New York, giấy dán tường đã được yêu cầu trong một bức thư, “không được hồng quá.” Có một chỗ lộ ra vữa trát bên trong mang hình những vết sẹo dữ tợn, như thể có người đã dùng cây kéo lớn rạch lên trong cơn giận dữ, cố tẩy xóa càng nhiêu càng tốt.
Ở giữa bức tranh tĩnh vật đó là một chiếc bàn. Trên bàn có ba thứ bất động. Một chiếc cốc nồng nặc mùi rượu, nhầy nhụa vì không ngừng được rót đầy, một chai Brandy, và một cái dầu nặng nề chúc xuống, mớ tóc bết dựng tua tủa. Phần cơ thể mềm oặt ngự trên chiếc ghế cập kênh bên cạnh bàn, một bàn tay túm cổ chai rượu với vẻ chiếm hữu khư khư.
Có tiếng gõ ngoài cửa, nhưng không có tiếng bước chân kèm theo, dường như người đó đã đứng ngoài một lúc lâu, nghe ngóng, cố lấy dũng khí.
Không trả lời, không có gì nhúc nhích.
Một tiếng gõ nữa. Lần này có thêm tiếng nói.
“Cậu Lou. Cậu Lou, hãy mở khóa đi.”
Không trả lời. Cái đầu nghiêng qua một chút, lộ ra quai hàm mờ mờ những chân râu.
Một tiếng gõ nữa.
“Cậu Lou, mở khóa đi. Đã hai ngày rồi.”
Cái dầu rời khỏi mặt bàn, ngóc lên một chút, mắt vẫn nhắm. “Bao nhiêu ngày?” Nó nói lơ mơ. “Tôi quên mất rồi. Ô… chúng đến giữa các đêm. Những sự trống trải ấy.”
Nắm đấm cửa xoay một cách vô ích. “Cho tôi vào, tôi chỉ dọn giường cho cậu thôi mà.”
“Cứ để mặc tôi.”
“Ít ra cậu cũng cần một cây đèn chứ? Trời sắp tối rồi. Để tôi vào thay đèn cho cậu.”
“Nó soi cho tôi thấy cái gì? Có gì để nhìn đâu? Trong này chỉ có tôi thôi. Tôi, và…”
Anh nghiêng chai rượu vào cốc. Không có gì chảy ra. Anh dốc ngược nó xuống, vẫn không có gì.
Anh đứng dậy, vung cái chai ra sau để ném vào tường. Rồi anh sững lại, hạ cánh tay xuống, lê bước ra cửa trên một chiếc giày, cuối cùng cũng xoay chìa khóa.
Anh giúi cái chai vào tay bà.
“Lấy cho tôi một chai thế này nữa,” anh quát. “Đó là tất cả những gì tôi muốn. Đó là điều tốt nhất thế gian có thể làm cho tôi lúc này. Tôi không cần đèn, nước hầm xương và việc dọn giường của bà.”
Nhưng người phụ nữ già đen đúa gầy gò ấy lại rất kiên quyết trong việc giữ sạch nhà cửa. Bà lén lách qua trước khi anh kịp ngăn lại, đặt cây đèn mới cạnh cây đèn cũ đã cạn dầu, trong nháy mắt đã kéo và giắt lại tấm ga giường quét đất, lén liếc nhìn, xem anh có định cản bà lại không.
Hoàn thành công việc, bà lại hối hả ra khỏi phòng, đi đường vòng men theo tường, để không ở quá gần anh. Cánh cửa lại nằm an toàn trong tay bà, bà quay lại nhìn anh, ở nơi anh đứng, siết chặt cổ chai rượu trong tay.
Và anh nhìn bà.
Đột nhiên, nỗi khao khát không nói lên lời khiến cả người anh run lên. Giọng nói cay nghiệt của anh một phút trước trở nên dịu dàng. Anh đưa tay về phía bà, như van xin bà ở lại, để nghe anh nói về cô, người vắng mặt, để cùng anh nói về cô.
“Bà có nhớ cô ấy từng ngồi đó cọ móng tay, bằng que bịt vải không? Lúc này tôi có thể nhìn thấy cô ấy,” anh nói đứt quãng. “Sau đó cô ấy giơ những ngón tay lên, như thế này, xòe rộng ra, và ngoẹo đầu từ bên này sang bên kia, ngắm xem chúng có đạt yêu cầu không.”
Thím Sarah không đáp.
“Bà có nhớ cô ấy trong chiếc váy màu xanh lục, với những sọc màu oải hương không? Tôi đang nhìn thấy cô ấy, với ánh nắng rọi từ sau lưng, tà váy lay động theo gió, đứng trên bến tàu đường Canal. Một chiếc dù nhỏ che trên đầu.”
Thím Sarah không trả lời.
“Bà có nhớ cách cô ấy xoay người ở ngưỡng cửa, mỗi khi chuẩn bị ra khỏi nhà, và cong những ngón tay về phía sau, như thể đang gọi bà đến, và nói ‘Là lá la’ không?”
Đến đây thì sự nhẫn nhịn đã vượt ngưỡng, như thể bà không chịu nổi nếu phải nghe thêm lời nào nữa. Lòng trắng hai con mắt bà nở rộng và đôi môi héo úa mím chặt. Bà vung tay, như ra lệnh cho anh im lặng.
“Chúa hẳn là rất tức giận với cậu vào cái ngày Người để cậu nhìn thấy người đàn bà đó lần đầu tiên.”
Anh va vào tường, áp mặt vào nó, hai cánh tay giơ thẳng trên đầu như đang cố mở đường để lên trần nhà. Giọng anh như đến từ trong bụng, đi qua những ống xoắn của nỗi đau âm ỉ. Đó là tiếng khóc của một người đàn ông trưởng thành.
“Tôi muốn cô ấy quay lại. Tôi muốn cô ấy quay lại. Tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nào tìm được cô ấy.”
“Cậu muốn cô ta quay lại để làm gì?” Bà hỏi.
Anh chậm chạp quay người ra.
“Để giết cô ta,” anh nói qua hàm răng nghiến chặt.
Anh đẩy mình khỏi bức tường, và lảo đảo mụ mị đến bên giường. Anh lật một mép đệm lên, luồn tay bên dưới, lấy ra một thứ. Rồi anh chậm chạp giơ nó lên, kẹp chặt trong tay cho bà thấy: một khẩu súng lục báng bằng ngà, nòng thép.
“Bằng cái này,” anh thì thào.