Chương 27
Mấy ngày sau, con tàu Thành phố Baton Rouge cập cảng St. Louis lúc 6 giờ tối. Hôm đó là thứ Tư, ngày 11.
Anh chưa từng đến thành phố này, nếu là cách đây một năm anh ắt sẽ thưởng thức và trầm trồ trước những khác biệt và mới lạ của nó: phồn thịnh hơn, bầu không khí hối hả hơn New Orleans uể oải, diện mạo mang hơi hướng Đức, kín đáo nhưng vẫn rất rõ ràng đối với một người đến từ thành phố đậm chất Pháp vùng hạ lưu. Bây giờ trái tim anh quá nặng nề để quan tâm hay chú ý đến bất cứ cái gì, ngoài việc chuyến đi cuối cùng đã kết thúc, và đây là nơi nó kết thúc, đây là nơi sẽ giải mã điều bí ẩn, quyết định vấn đề và an bài số mệnh của anh.
Ngày hôm ấy có nhiều mây, nhưng ngay cả trong cảnh mây mù nó vẫn có cái gì đó sang chảnh, nồng hắc mà New Orleans không có vào những ngày mây xám. Có một thứ năng lượng trong không khí; kém thanh lịch và xấu xí hơn nhiều.
Dù thế nào thì đối với anh nó chỉ có ý nghĩa là: miền Bắc; điểm cực Bắc xa nhất anh từng đến.
Tất nhiên anh đã có địa chỉ của Bertha Russell, nhưng vì chưa đến giờ, và có lẽ vì sự nhút nhát tiềm ẩn mà bản thân cũng không hay, cứ cố trì hoãn cái thử thách cực điểm này càng lâu càng tốt. Anh quyết định tìm một phòng khách sạn rồi mới đi gặp và nói chuyện với người phụ nữ xa lạ, giờ đây là nơi trông cậy duy nhất của anh.
Anh rời cầu tàu đi về phía thành phố, và lập tức được mời chào bằng những chiếc roi da giơ cao bởi những người xà ích háo hức vây quanh, và anh lên ngẫu nhiên một chiếc xe.
“Tìm cho tôi một khách sạn,” anh mệt mỏi nói. “Không hào nhoáng và không quá xa trung tâm thành phố.”
“Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng khách sạn Commercial Travelers là phù hợp. Nó gần ngay đây thôi.”
Ngay cả người da đen ở đây cũng nói nhanh hơn ở nhà, anh nghĩ với vẻ thờ ơ lờ đờ.
Khách sạn là một nơi bẩn thỉu, nồng nặc mùi bia, nằm ngay bến tàu, nhưng phù hợp với mục đích của anh. Anh được đưa chìa khóa, chỉ đường và tự tìm đến căn phòng ảm đạm với một cửa sổ hầu như không ngắm được gì, ba mặt bị chắn bởi tường gạch. Một lớp bụi đất đã két lại bám vào những ô kính, và một tấm rèm tối màu, những lỗ thủng lâu nay đã bị trám lại bằng cỏ. Ánh hoàng hôn đã nhuộm kín khắp nơi, và nếu có thể trông ra cảnh bên ngoài thì anh cũng không nhìn. Anh không đến đây để ngắm cảnh.
Anh thả túi xuống, buông mình nặng nề vào một chiếc ghế, chà xát hai cổ tay và nghiền ngẫm.
Anh lại hình dung ra cảnh tượng sắp tới, như anh đã làm cả ngày trên tàu, và đêm qua. Nghe lại giọng nói trấn an mà anh hi vọng được nghe. “Con bé Julia nhà chúng tôi luôn nghịch ngợm thế đấy, anh Durand ạ. Đây không phải lần đầu con bé bỏ trốn đâu. Nó sẽ trở về với anh, đừng lo. Khi anh vừa đi tìm, nó sẽ đột ngột trở về cầu xin anh tha thứ đấy.”
Anh nhận ra mình nhất định muốn câu chuyện đi theo hướng đó, luôn xây dựng nó trong tưởng tượng. Để được đảm bảo rằng đó là Julia thật; một kẻ lừa đảo, tên trộm, một kẻ ngoài vòng pháp luật, nhưng vẫn đúng là người mà cô ta tự xưng. Vì sao, anh tự hỏi, vì sao?
Bởi vì nặc danh nghĩa là sự mất tích của cô ta sẽ càng hoàn chỉnh, càng không thể quay về như xưa. Nặc danh nghĩa là cô ta sẽ đi mãi mãi, không hi vọng tìm thấy, anh không nhận lại được gì.
Hoặc bởi vì lựa chọn cô ta vẫn là Julia, có cái gì đó đen tối hơn, thậm chí tồi tệ hơn, ý nghĩ ấy khiến người anh run lên.
Và rồi anh nhớ đến bức thư mà Bertha nói là được viết bằng chữ một người lạ, và… mọi hi vọng của anh tan biến.
Anh rời phòng đi xuống dưới và cố ăn thứ gì đó trong một phòng ăn không chút cảm tình, liền kề khách sạn, nơi ăn uống chỉ dành cho dân buôn bán, đầy khói thuốc, ồn ào những giọng khoác lác, và không có bóng dáng phụ nữ; anh ăn theo quán tính mà không biết mình ăn gì. Xong, anh ngồi đó với tách cà phê xấu xí, lạnh như đá, rồi chợt nhận thấy đã gần 9 giờ, qua mặt đồng hồ lớn màu vàng treo cao trên tường, anh liền quyết định thực hiện chuyến đi ngay lúc ấy, không chờ đến sáng. Cố ngủ sẽ chỉ càng khổ sở, không chịu nổi mà thôi. Anh muốn nó kết thúc, mặc kệ tốt xấu ra sao; anh muốn biết ngay lập tức, anh không thể chịu đựng sự mập mờ này thêm một giờ nào nữa.
Anh liền về phòng, lấy hai bức thư của người chị gái, tờ đăng ký kết hôn và tất cả giấy tờ có liên quan, nhét vào một cái túi thuận tiện, đi xuống, tìm một chiếc xe và đọc địa chỉ.
Khó có thể nói gì nhiều về ngôi nhà nhìn từ bên ngoài trong tiết trời ảm đạm. Nó có vẻ khá lớn. Hình bóng của phần trên ngôi nhà dốc về phía sau, nghĩa là nó có mái hai mảng. Nó nằm trong một khu vực hết sức sạch sẽ và khả kính. Cây trồng dọc hai bên đường, và những con đường tĩnh lặng thiếu vắng âm thanh từ bên trong những ngôi nhà, nơi những công dân mẫu mực có mặt vào giờ này, tọa lạc gần đó. Một ngọn đèn đường lẻ loi nhấp nháy như con đom đóm màu cam trong hàng cây. Một gác chuông nhà thờ tựa lưỡi dao đen dày cắt lên nền trời màu bụi gạch, sáng hơn mặt đất vì những đụn mây sà thấp rực rỡ.
Còn ở ngôi nhà, ánh đèn màu cam hắt ra qua hai ô cửa sổ tầng dưới, phần còn lại tối om. Chí ít cũng có người bên trong.
Anh xuống xe và tìm tiền trả.
“Có cần đợi ngài không ạ?” Người đánh xe hỏi.
“Không,” anh miễn cưỡng nói, “không! Tôi không biết mình sẽ mất bao lâu.” Thế nhưng anh gần như ghét phải nhìn thấy chiếc xe quay đầu chạy đi, để mặc anh ở đó, như bây giờ, và không thể rút lui vào phút cuối, như anh đang khao khát đến cháy bỏng.
Anh bước đến cửa và tìm thấy một nút chuông nhỏ bằng ngà, liền ấn vào.
Phải chờ khá lâu, nhưng anh không nhấn chuông nữa.
Rồi ngay sau đó, rất chậm chạp, như thể được nhen lên bởi ánh sáng từ xa đưa lại, một cửa sổ hình bán nguyệt phía trên cửa mà giờ anh mới trông thấy, từ từ sáng lên thành những dải đỏ sậm qua màu kính trong suốt.
Giọng một phụ nữ vọng qua cửa, “Xin hỏi ai vậy? Quý vị muốn gì?”
Chị ta sống một mình, qua sự đề phòng đặc trưng này.
“Tôi muốn nói chuyện với cô Bertha Russell,” anh đáp lại. “Chuyện quan trọng.”
“Xin đợi một lát.”
Anh nghe thấy then cửa bị kéo ra, rồi chốt khóa xoay. Và cửa mở, người phụ nữ đứng đó dò xét anh, chiếc đèn dầu hỏa trong tay giơ cao sao cho những tia sáng rọi đến bao phủ anh để chị ta nhìn rõ.
Người phụ nữ xấp xỉ 50 tuổi, vóc người cao lớn nhưng không mập mạp, mà mang cảm giác khô cứng nhiều hơn. sắc mặt chị ta không tốt; nó vàng vọt như sáp, sắc mặt của người lo lâu và ở lì trong nhà một thời gian đáng kể. Mái tóc chị ta, cứng và bóng, đã bước vào giai đoạn muối tiêu. Đằng sau vẫn còn đen, phía trên trán đã xuất hiện những dải trắng chạy ngược lên trên, và cách chị ta xử lí mái tóc càng làm nổi bật nó hơn là che đi: chải hết về đằng sau, chặt đến nỗi như bị kéo mạnh, rồi quấn nghiến thành một búi. Nó tạo cho chị ta vẻ nghiêm khắc có thể không hoàn toàn đúng sự thật, vì thực ra có một sự hóm hỉnh và dịu dàng phảng phất trên nét mặt.
Chị mặc bộ váy dài bằng vải alpaca đen cứng nhắc, cổ áo đan sợi trắng ôm khít cổ và cài cây trâm bằng đá carnelian.
“Vâng,” chị nói bằng giọng cất cao. “Tôi là Bertha Russell. Tôi có biết anh không?”
“Tôi là Louis Durand,” anh trả lời trang nghiêm. “Tôi vừa từ New Orleans tới.”
Anh nghe thấy chị hít vội một hơi. Chị nhìn chằm chằm hồi lâu, như để quen với anh. Rồi đột ngột đẩy cửa rộng hơn. “Mời anh vào, anh Durand,” chị nói. “Anh vào nhà đi.”
Chị đóng cửa ngoài lại sau lưng anh. Anh đứng một bên chờ chị dẫn đường.
“Lối này,” chị nói. “Phòng khách trong đây.”
Anh đi theo chị xuôi theo hành lang trải thảm cũ sờn màu tối, và bước sang một bên. Hẳn là chị đang đọc sách khi anh ghé thăm; vì khi chị đặt cây đèn xuống chiếc bàn giữa phòng, xuất hiện một cuốn sách khổ lớn viền chỉ vàng, để mở, và chiếc kính gọng vàng đặt bên cạnh. Anh nhận ra đó là quyển Kinh Thánh, từ cuốn sách thò ra sợi nhung đỏ đánh dấu.
“Anh chờ một chút, để tôi thắp thêm đèn.”
Chị thắp cây đèn thứ hai, nhờ đó phạm vi ánh sáng trong buổi tối không chỉ đến từ một nguồn. Căn phòng vẫn như thế ngoại trừ đã sáng lên.
“Mời anh ngồi, anh Durand.”
Chị ngồi đối diện anh qua bàn, nơi chị đã ngồi khi ở một mình. Chị kéo sợi ruy băng đánh dấu qua chỗ mới trên cuốn Kinh Thánh, gập cuốn sách vuông vức nặng nề ấy, khẽ đẩy nó sang một bên.
Anh có thể thấy sự hồi hộp vì phấn khích pha lẫn e sợ của chị. Nó mạnh đến nỗi gần như run rẩy; song cũng bị dập tắt một cách dứt khoát.
Chị chắp hai tay với một cố gắng lớn, và đặt chúng lên mép bàn, chỗ của cuốn Kinh Thánh lúc trước.
Chị liếm bờ môi nhợt nhạt.
“Giờ anh có thể cho tôi biết điều gì? Anh đến đây để nói gì với tôi?”
“Không phải tôi có thể nói gì với chị,” anh trả lời. “Mà là chị có thể nói gì với tôi.”
Chị gật đầu có phần miễn cưỡng, như thể dù không thích thử thách này, song vẫn sẵn sàng chấp nhận, để vấn đề được tiến triển.
“Được thôi. Tôi có thể nói với anh như thế này. Em gái tôi, Julia đã nhận được lời cầu hôn của anh qua thư, vào ngày 15 tháng Tư năm nay. Anh có phủ nhận điều đó không?”
Anh gạt đi sự cần thiết phải trả lời thẳng, giữ im lặng để chị tiếp tục.
“Em gái tôi rời khỏi đây vào ngày 18 tháng Năm, để gặp anh ở New Orleans.” Mắt chị nhìn xoáy vào mắt anh. “Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nó. Từ hôm đó tôi không có tin tức gì của nó nữa.” Chị hít sâu, nghèn nghẹn. “Tôi đã nhận được bức thư trả lời cho một trong những bức thư tôi viết, bằng nét chữ của người lạ. Và giờ thì chỉ có mình anh đến đây.”
“Không còn ai để tôi có thể đưa đến đây nữa.”
Anh thấy mắt người phụ nữ mở to, nhưng chờ đợi.
“Tôi nghĩ sẽ tiết kiệm thời gian cho chúng ta nếu như làm rõ một điều trước khi…”
Anh ngưng bặt, không cần nói nốt câu. Anh đã tìm ra câu trả lời, nhìn lên bức tường, qua vai người phụ nữ. Không thể tin nổi là đến giờ anh mới trông thấy nó, nhưng toàn bộ sự chú ý của anh đã hướng vào chị ta chứ không phải xung quanh, và nó thì lại ở xa ánh đèn.
Đó là một bức ảnh lớn, lồng trong chiếc khung bằng nhung màu đỏ cherry, kích cỡ bằng nửa đầu người. Người trong ảnh không trẻ, không phải là một thiếu nữ. Cái miệng đã bắt đầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn. Cô không đẹp. Tóc đen, búi đằng sau…
Bertha đã đứng lên, bước đến hơi chếch một bên bức ảnh, giơ cao cây đèn và để xa qua vai, khiến bức ảnh nằm trọn trong luồng sáng mạnh.
“Đó là Julia. Đó là em gái tôi. Trước mặt anh đấy. Bức ảnh được phóng cách đây hai, ba năm.”
Tiếng thì thầm của anh chỉ vừa chạm đến tai chị. “Vậy thì đó không phải… là người tôi đã cưới.”
Chị vội vã đặt cây đèn xuống, trước cảnh tượng nó soi vào phía đối diện. “Anh Durand!” Chị dợm bước tới, như định đỡ anh. “Tôi mang cho anh thứ gì nhé!”
Anh đờ đẫn xua tay từ chối. Anh nghe thấy tiếng thở nặng nhọc trong tai ầm ầm như tiếng súng. Anh loạng choạng tìm chiếc ghế mình đã đứng lên và ngồi phịch xuống, bám chặt khư khư vào nó.
Anh đưa tay ra và chỉ một ngón tay; ngón tay xoay vòng vòng trong lúc chờ đôi môi tìm được từ ngữ và đi theo nó. “Đó là người phụ nữ trong bức ảnh tôi nhận được. Nhưng không phải là người phụ nữ tôi đã kết hôn ở New Orleans vào ngày 20 tháng Năm vừa rồi.”
Sự kinh hoàng hiện rõ trên gương mặt chị, đã bị gạt bỏ, nhận chìm trước dáng vẻ của anh, hẳn là minh chứng hùng hồn hơn hết thảy.
“Tôi sẽ lấy cho anh ít rượu,” chị hấp tấp nói.
Anh giơ tay phản đối. Kéo cổ áo, nới rộng nó ra.
“Tôi sẽ lấy cho anh ít rượu,” chị bất lực nhắc lại.
“Không, tôi không sao. Đừng lãng phí thời gian.”
“Anh có ảnh, bất cứ thứ gì tương tự, của người kia để cho tôi xem không?” Một lúc sau chị hỏi.
“Tôi không có gì, một chút cũng không. Cô ta cứ trì hoãn việc chụp ảnh cưới. Giờ tôi mới thấy sơ sót này có thể là chủ ý.”
Anh mỉm cười ảm đạm. “Tôi có thể tả cô ta cho chị nghe, nếu nó giúp được gì. Tôi không cần ảnh để nhớ. Cô ta tóc vàng, người nhỏ nhắn. Cô ta rất… có thể nói là trẻ hơn em gái chị.” Anh ngập ngừng dừng lại, nhận ra sự vô ích của việc này.
“Còn Julia?” Người phụ nữ khăng khăng, tưởng như anh có thể cho chị câu trả lời. “Còn Julia đâu? Con bé sao rồi? Nó ở đâu?” Chị chống hai tay xuống bàn, chồm người lên. “Tôi đã tiễn nó lên tàu.”
“Tôi đã đón con tàu. Nó cập bến mà không có cô ấy. Cô ấy không ở trên đó.”
“Anh có chắc không, anh có chắc không?” Đôi mắt chị long lanh những giọt nước mắt mong mỏi.
“Tôi đã quan sát những người xuống tàu. Tất cả đã rời tàu. Cô ấy không ở trong số họ. Cô ấy không ở trên tàu.”
Người phụ nữ ngồi sâu vào chiếc ghế bên kia bàn, đặt tay lên trán, giữ mái đầu như thế một lúc lâu. Chị không khóc, nhưng miệng run run méo xệch đi vài lần.
Họ đều phải đối diện với chuyện này. Giờ nó đã phơi bày. Không thể né tránh. Nó đã đi đến nước này. Nó là một câu hỏi mà một trong hai người sẽ nói ra.
Chị là người đó.
Chị buông tay xuống. “Con bé đã đi rồi!” Chị thì thào khàn khàn. “Nó đã gặp cái kết của mình trên con tàu đó.” Chị run bắn như thể một hình bóng quỷ quyệt xấu xa nào đó đã bước vào phòng, không cần đến cửa đi hay cửa sổ. “Theo cách nào đó, dưới tay kẻ nào đó.” Chị lại run lên, gần như bị sốt rét. “Giữa thời điểm tôi vẫy tay tạm biệt nó vào chiều thứ Tư hôm ấy…”
Anh dần gục đầu xuống trong sự tán thành nghiệt ngã. Cuối cùng anh đã tin chắc, đã hiểu hoàn toàn bản chất của sự việc. Anh nói nốt hộ chị.
“… và thời điểm tôi đứng bên cầu tàu để đón cô ấy vào chiều thứ Sáu.”