Chương 28
Anh trông thấy Bertha Russell, mặc áo choàng, đi găng và đội mũ, như một bóng ma trong màu đen tang tóc của nỗi đau thương, chờ trước cửa nhà, từ sớm, khi anh đi xe đến vào 9 giờ sáng ngày hôm sau, theo cuộc hẹn ấn định từ hôm qua. Bất cứ khổ đau cay đắng nào chị chịu đựng trong đêm qua đã biến mất, giờ chị đã lấy lại tự chủ, chỉ còn lại vài dấu vết. Gương mặt chị lạnh lẽo và cứng đờ trong sự chịu đựng ngoan cường. Song có những vệt thâm dưới mắt, nét mặt xanh xao vì mất ngủ. Đó là gương mặt một người phụ nữ kiên quyết báo thù bằng bất cứ giá nào, người sẽ tỏ ra tàn nhẫn như những gì chị đã phải gánh chịu.
“Anh ăn sáng chưa?” Chị hỏi khi anh xuống xe và đi đến chỗ chị.
“Tôi không muốn ăn,” anh đáp ngắn gọn.
Chị đóng cửa và sóng bước với anh đi ra xe; tạo một cảm giác rằng chị sẽ tìm cách để anh ăn, nếu bắt buộc, nhưng sẽ bất đắc dĩ phí phạm thời gian quý giá.
“Chị đã nghĩ đến ai chưa?” Anh hỏi khi xe đã lăn bánh. Chị đã nói địa chỉ, xa lạ với anh như tất cả những địa chỉ sắp tới, khi lên xe.
“Tôi đã đi hỏi thăm sau khi anh ra về tối qua. Tôi đã được giới thiệu một người có uy tín.”
Họ đi vào một khu kinh doanh tấp nập của thành phố, tạo thành một cặp kì lạ, cả hai đều mím chặt môi, ngồi cứng đờ và thẳng đuỗn, không nói với nhau một lời. Cuối cùng chiếc xe dừng lại trước một tòa nhà xấu xí, bằng gạch đỏ thô kệch, lỗ chỗ những ô cửa sổ đi thành bốn hàng song song, tất cả đều hình vòm. Một tổ ong thực sự của những văn phòng tư và kinh doanh nhỏ. vẻ ngoài của nó không nói lên điều gì về mức độ phát đạt của những người thuê nhà.
Durand trả tiền xe và theo chị đi vào trong. Một không khí ẩm mốc, lạnh hơn hẳn ngoài đường, lập tức tấn công họ, ánh sáng thì thiếu, không cải thiện được mấy qua những bóng đèn khí đốt đặt dè sẻn dọc các hành lang.
Chị đọc bảng danh sách chỉ dẫn trên tường, nhưng không rà ngón tay theo nó, và bỏ đi trước khi anh có ý niệm gì về cái tên chị tìm kiếm.
Họ đi bộ lên cầu thang, tòa nhà không lắp thang máy. Đi theo chị, lên tầng một, rồi tầng hai, cuối cùng là tầng ba, anh có cảm tưởng rằng người phụ nữ đó ắt sẽ trèo lên tận đỉnh Everest, để đạt mục đích của mình. Hai chị em họ, chị kể cho anh nghe, có tổ tiên là người Hà Lan. Anh chưa từng thấy một sự ngoan cường lặng lẽ như thế ở bất cứ ai như anh thấy khi thân hình chị cắm cúi chuyển động trên những bậc thang. Chị kiên trì với mục đích lạnh lùng hơn bất cứ người da trắng miền Nam nhanh nhẹn nóng tính nào. Anh không thể không khâm phục chị; và, trong một thoáng, anh không thể không tự hỏi người kia, Julia, sẽ là người vợ như thế nào.
Đến tầng ba, họ rẽ vào một hành lang dài dằng dặc, còn thiếu ánh sáng hơn, chia thành những khu vực không đồng đều, chỗ cao chỗ thấp.
“Nó không phô bày nhiều lắm sự phát đạt trong kinh doanh, chị thấy thế không?” Anh nhận xét vu vơ, không nghĩ ngợi.
“Nó chứng tỏ sự trung thực,” chị trả lời ngắn gọn, “và đó là thứ tôi tìm kiếm.”
Anh hối tiếc vì đã đưa ra nhận xét vừa rồi.
Chị dừng lại ở cánh cửa cuối cùng.
Trên tấm kính bằng thủy tinh thổi chiếm nửa cánh cửa là một vòng tròn chữ viết bằng sơn, ghép từ hai cung tròn:
WALTER DOWNS
THÁM TỬ TƯ
Durand gõ cửa thay cho cả hai, một giọng nam trung dày và vang, sang sảng cất lên, “Mời vào.” Anh mở cửa và đứng sang bên để Bertha vào trước, rồi theo sau chị.
Ánh sáng trong này tốt hơn, nhờ ngoài đường hắt vào. Đó là một căn phòng đơn, trông còn nghèo nàn hơn những gì mà tòa nhà bên ngoài hứa hẹn. Một chiếc bàn lớn nhưng xơ xác cùng cực được chia đôi, chủ nhà ngồi một bên, khách đến - tất các các vị khách - ngồi bên kia. Ở bên đó chỉ có đúng hai chiếc ghế, không hơn, một chiếc có mặt ghế đan bằng mây thưa. Bên này có một két sắt nhỏ, bốn góc đã gỉ, cánh tủ két để hở. Không phải vô tình, vì ở đó thòi ra một tập sổ sách, trên cùng là đống giấy tờ lộn xộn, ngăn cản không cho nó đóng lại.
Người đàn ông ngồi giữa chốn kém hấp dẫn này chưa đến 40 tuổi, hơn Durand hai, ba tuổi là cùng. Tóc anh ta màu cát, vẫn còn dày, trừ chỗ vát vào ở mỗi bên thái dương, làm cho vầng trán cao hơn và khiến khuôn mặt hao hao con sư tử. Anh ta vừa vặn với tuổi một cách hiếm thấy, mày râu nhẵn nhụi, ria mép cũng không có. Và nghịch lý là, thay vì tăng vẻ trẻ trung, phong cách này lại khiến anh ta thêm già dặn, đường nét gương mặt rất sắc sảo, nhất là cái miệng. Mắt anh ta màu xanh lam, toát ra vẻ tử tế và nhân hậu. Song ẩn sâu bên trong thỉnh thoảng lại bắt gặp một tia sáng xanh lóe lên, hàm chứa sự cuồng tín. Đó là đôi mắt điềm tĩnh nhất Durand từng gặp. Nó tự tin và chăm chú như mắt của một quan tòa.
“Tôi đang nói chuyện với anh Downs phải không?” “Đúng vậy, thưa cô,” anh ta đáp ồm ồm.
Không hề có vẻ muốn lấy lòng trong cung cách của anh ta. Như thể anh ta từ chối thỏa hiệp, để xem khách hàng có đáp ứng được yêu cầu của mình không, hơn là anh ta đáp ứng yêu cầu của họ.
Và Durand đã gặp Walter Downs trong hoàn cảnh như vậy. Một trăm người đi qua một người, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, chín mươi chín người không để lại dấu vết, ngoài một làn gió thoảng qua. Tuy nhiên người thứ một trăm có thể sẽ rẽ ngang, chệch khỏi hướng đi, như một dòng nước cắt chéo, hai luồng chảy trước và sau đó hoàn toàn không liên quan nhau.
“Có ghế đấy, thưa cô.” Anh ta chẳng buồn đứng lên.
Chị ngồi xuống. Durand vẫn đứng, thỉnh thoảng dựa vai vào tường cho đỡ mỏi.
“Tôi là Bertha Russell và đây là anh Louis Durand.”
Anh ta chỉ gật đầu cộc lốc với Durand.
“Chúng tôi tới gặp anh về một vấn đề liên quan đến hai chúng tôi.”
“Vậy ai sẽ nói đây?”
“Anh nói đi, anh Durand. Tôi nghĩ như thế là tiện nhất.”
Durand nhìn xuống sàn như đang đọc chữ từ đó, chuẩn bị một lúc trước khi bắt đầu. Nhưng Downs đã quay đầu để hướng trọn ánh mắt về anh, không tỏ ra sốt ruột.
Câu chuyện dường như đã quá cũ, đã kể đến mòn tai. Anh hạ thấp giọng, không nhấn mạnh vào bất cứ chỗ nào.
“Tôi đã trao đổi thư từ với em gái của quý cô đây, từ New Orleans nơi tôi sống, tới nơi cô ấy sống ở đây. Tôi đã ngỏ lời cầu hôn, cô ấy đã đồng ý. Cô ấy đã rời khỏi đây vào ngày 18 tháng Năm vừa rồi, để đến chỗ tôi. Chị gái cô ấy đã tiễn cô ấy. Cô ấy không bao giờ đến nơi. Một người khác đã gặp tôi ở New Orleans khi tàu cập bến, tìm mọi cách thuyết phục tôi rằng cô ta là em gái của cô Russell bất chấp sự khác biệt về ngoại hình giữa họ, và chúng tôi kết hôn. Cô ta đã lấy cắp hơn 50.000 đô la của tôi và bỏ trốn. Cảnh sát ở đó cho tôi biết họ không thể làm gì vì không đủ cơ sở chứng minh rằng cô gái mà tôi câu hôn đã không còn nữa. Kẻ đội lốt và kẻ ăn cắp không thể bị trừng phạt bởi luật pháp.”
Downs chỉ nói ba từ.
“Và anh muốn?”
“Chúng tôi muốn tìm ra bằng chứng của tội ác. Chúng tôi muốn anh tìm bằng chứng của tội ác mà chúng tôi biết chắc chắn đã diễn ra. Chúng tôi muốn anh lùng sục và tóm được người phụ nữ là kẻ có vai trò chính trong chuyện này.” Anh hít sâu một hơi, nóng rực. “Chúng tôi muốn tội ác bị trừng phạt.”
Downs gật đầu chắc nịch. Anh ta tỏ ra trầm ngâm.
Họ chờ đợi. Anh ta im lặng lâu đến nỗi cuối cùng Durand, gần như cảm thấy anh ta đã quên béng sự hiện diện của họ, liền hắng giọng nhắc.
“Anh sẽ nhận vụ này chứ?”
“Tôi đã nhận nó rồi,” Downs trả lời với cái phẩy tay sốt ruột, như muốn nói: Đừng quấy rầy tôi.
Durand và Bertha Russell đưa mắt nhìn nhau.
“Tôi đã suy nghĩ và quyết định nhận vụ này trong lúc nghe anh kể,” anh ta nói tiếp. “Nó là kiểu tôi thích. Hai người đều là người trung thực. Theo như anh kể…” Anh ta đột ngột ngước nhìn Durand, “Chắc chắn là thế. Chỉ có người đàn ông trung thực mới có thể ngốc nghếch như anh.”
Durand đỏ mặt, nhưng không đáp lại.
“Và tôi cũng là kẻ ngốc. Đã hơn tuần nay tôi không có lấy một khách hàng cho đến khi gặp hai người. Nhưng nếu tôi đã không thích vụ này, tôi sẽ không nhận nó.”
Có cái gì đó ở anh ta khiến Durand tin là thế.
“Tôi không thể hứa với anh là sẽ phá án thành công. Tôi chỉ có thể hứa với anh một điều: tôi sẽ không từ bỏ cho đến khi phá được nó.”
Durand đưa tay lấy ví. “Xin anh vui lòng cho biết thông thường…”
“Trả tôi bao nhiêu tùy anh, để trang trải chi phí,” Downs nói gần như hờ hững. “Khi nào nó vượt quá, tôi sẽ cho anh biết.”
“Khoan đã.” Bertha Russell xen vào, mở ví ra.
“Đừng… xin chị đấy… đó là bổn phận của tôi,” anh phản đối.
“Chuyện này không liên quan đến lòng hào hiệp!” Chị nói với anh gần như dữ tợn. “Nó là em gái tôi. Và tôi có quyền san sẻ phí tổn với anh. Tôi yêu cầu quyền đó. Anh đừng hòng tước nó đi.”
Downs nhìn hai người họ. “Tôi thấy mình đã không lầm,” anh ta lẩm bẩm. “Đây là một vụ hợp với tôi.”
Anh ta cầm tờ báo buổi sáng hôm đó lên, trước tiên giũ hết ra, rồi cuộn vào, chỉ chừa lại một cột thẳng đứng. Anh ta rà ngón tay xuống dòng quảng cáo thương mại trả tiền.
“Cô ấy đi con tàu nào?” Anh ta hỏi.
“Tàu Thành phố New Orleans,” Durand và Bertha Russell đồng thanh đáp.
“Thật trùng hợp,” anh ta nói, “nó đang neo ở đây, chờ chuyến tiếp theo. Còn một lượt về nữa, nó sẽ khởi hành vào ngày mai, lúc 9 giờ sáng.”
Downs đặt tờ báo xuống.
“Anh có định ở lại đây không, anh Durand?”
“Tôi đã giao phó vụ này cho anh, nên tôi sẽ về New Orleans luôn,” Durand nói, rồi gượng gạo bổ sung, “Tôi còn công việc ở đó.”
“Tốt,” Downs nhận xét, vươn tay lấy mũ. “Vậy ta sẽ đi cùng nhau, bây giờ tôi sẽ xuống đó mua vé. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc vẽ lại bước chân cô ấy, thực hiện cuộc hành trình như cô ấy, trên cùng con tàu, cùng vị thuyền trưởng và thủy thủ đoàn. Có thể có người đã nhìn thấy gì đó, có thể họ còn nhớ. Phải có người còn nhớ.”