← Quay lại trang sách

Chương 29

Những căn buồng của con tàu Thành phố New Orleans rất nhỏ, không khác gì những hộp giày xếp san sát trên giá của cửa hàng. Căn buồng họ ở chung dường như còn nhỏ nhất, có lẽ vì cả hai cùng lúc có mặt trong đó. Để di chuyển và treo đồ, họ phải liên tục hóp người đi nghiêng để tránh chèn và va vào nhau bất cứ lúc nào.

Qua cửa sổ, trong ánh sáng yếu ớt, có thể trông thấy hai dải màu nhem nhuốc, dải dưới màu xám, dải trên màu nâu rám; đó là mặt và bờ sông Mississippi.

“Tôi sẽ giúp bằng mọi cách có thể,” Durand đề nghị. “Chỉ cần cho tôi biết phải làm gì và làm như thế nào.”

“Hành khách trên chuyến tàu này sẽ không cùng là hành khách trên chuyến tàu kia,” Downs nói. “Đừng trông mong quá nhiều vào điều đó. Những người đi cả hai chuyến tàu, là những người làm công việc điều khiển con tàu và trông nom nó. Chúng ta sẽ chia nhau ra phụ trách họ, từ thuyền trưởng tới người đốt lò. Và nếu không tìm được gì, chúng ta cũng chẳng tệ hơn trước. Nếu tìm được gì đó, bất kể là gì, thì chúng ta cũng thành công lớn. Thế nên đừng nản chí. Việc này có thể mất vài tháng đến vài năm, và chúng ta mới chỉ bắt đầu.”

“Vậy anh… chúng ta cố gắng tìm kiếm điều gì trước tiên?”

“Chúng ta cố gắng tìm một nhân chứng đã trông thấy cả hai người họ. Và như thế tôi không cần phải ngụ ý là họ đi với nhau; Julia thật và Julia giả. Có nghĩa là, cả hai đều còn sống và ở trên tàu trong cùng cuộc hành trình, ở cùng thời điểm. Vì người chị gái đã chứng kiến người thật bước lên tàu, và anh chứng kiến kẻ mạo danh xuống tàu. Điều tôi đang cố đạt đến, nhờ quá trình loại trừ, là người thật được trông thấy lần cuối khi nào, kẻ giả mạo được trông thấy lần đầu tiên khi nào? Tôi đánh dấu thời điểm đó, sít sao nhất có thể, ra ngoài kia…,” ông chỉ về hai dải màu, “và nó cho tôi một điểm ước chừng trong chuyến đi khi sự việc xảy ra, khoanh vùng phạm vi quyền hạn của nhà chức trách bang, và khu vực mà tôi được lăn xả vào để tìm bằng chứng duy nhất, nếu nó tồn tại.”

Durand không hỏi câu cuối anh ta ám chỉ điều gì. Có lẽ luồng ớn lạnh chạy suốt sống lưng anh đã trả lời quá rõ.

Viên thuyền trưởng tên là Fletcher. Ông ta nói năng thận trọng; kiểu người nghĩ kĩ rồi mới nói, và vì thế sau này không phải hối tiếc về những điều mình đã nói. Bàn tay ông mân mê bộ râu đen um tùm trong lúc lục lại trí nhớ.

“Có,” mãi sau ông mới lên tiếng, sau khi đã nghe Downs miêu tả tỉ mỉ. “Có, tôi nhớ có một cô gái nhỏ như ông tả. Một cơn gió đã thổi tung vạt váy cô ấy đúng lúc chúng tôi đi ngược chiều nhau dọc boong tàu. Cô ấy vội vàng dùng hai tay kéo nó xuống. Nhưng trong chốc lát…,” ông ta không nói hết; tuy nhiên đôi mắt ông ta mơ màng vẻ hồi tưởng. “Rồi khi đi qua, tôi chạm tay vào vành mũ chào. Cô ấy cụp mắt xuống không nhìn tôi…,” ông ta tủm tỉm cười, “nhưng cô ấy mỉm cười khi đi qua, và tôi biết nụ cười ấy dành cho mình, vì không còn ai khác ở đấy.”

“Giờ đến người này,” Downs nói.

Anh ta đưa ra bức ảnh nhỏ của Julia, được Bertha cung cấp, rất giống bức ảnh Durand từng giữ.

Viên thuyền trưởng quan sát hồi lâu, nhưng không có vẻ quá hứng thú; sau đó trầm ngâm một lúc.

“Không,” cuối cùng ông ta nói. “Không, tôi chưa từng nhìn thấy cô hầu… người phụ nữ này.” Ông trả nó lại, như thể mừng vì thoát khỏi nó.

“Ông chắc chứ?”

Thuyền trưởng không muốn cố nhớ làm gì, cho dù ông có thể làm thế.

“Chúng tôi chuyên chở rất nhiều hành khách, thưa ông, hết chuyến tàu này đến chuyến tàu khác, và tôi không thể nhớ hết mọi gương mặt. Xét cho cùng tôi cũng chỉ là một người đàn ông mà thôi.”

“Và lạ thay,” sau đó Downs nhắc lại với Durand, “cách hoạt động của bộ não đàn ông. Họ nhìn bằng nhịp tim và lượng máu lưu thông. Đối với người tôi chỉ có thể tả cho ông ta bằng lời mà tôi nghe kể lại, ông ta có thể nhớ ra tức khắc, và có lẽ còn nhớ suốt phần đời còn lại. Nhưng với người khác, dù đưa ảnh ra trước mặt thì ông ta chẳng nhớ chút nào.”

Durand nhấn chuông căn buồng khuất nẻo của bọn họ, và sau khoảng thời gian thông thường, một anh hầu phòng lóng ngóng chạy ra.

“Không phải anh,” Durand nói. “Người dọn phòng cho những hành khách nữ đâu rồi?”

Một cô hầu phòng xuất hiện với bộ dạng trễ nải. Anh cho cô ta một đồng tiền.

“Tôi muốn hỏi cô một chuyện. Liệu cô còn nhớ không. Cô đã bao giờ đến một căn buồng của khách, vào buổi sáng, và thấy giường đệm gọn gàng, không có ai ở đó không?”

Cô gái gật đầu nhanh chóng. “Có ạ, rất nhiều lần. Không phải chuyến tàu nào chúng tôi cũng kín khách. Đôi khi có tới nửa số phòng bị trống.”

“Không, tôi hỏi theo cách khác vậy. Cô đã bao giờ đến một buồng mà ban đầu đã có người ở, và sau đó thấy chăn đệm không được dùng đến không?”

Câu này nghe chừng khó với cô gái. “Ý ông là không có ai ngủ ở đó, nhưng có người đã đặt phòng?”

“Đúng thế, đúng như thế!”

Cô gái không chắc chắn, cô vò đầu bứt tai, nhưng vẫn không nhớ ra.

Anh tìm cách giúp. “Có lẽ quần áo của họ vẫn ở đó. Đồ đạc của họ vẫn ở đó. Chắc chắn cô có thể nhớ. Nhưng không có ai nằm trên giường.”

Cô gái vẫn không chắc chắn.

Anh đưa ra lá bài chủ. “Có lẽ có một lồng chim ở đó.”

Cô ta vỡ òa ra, như bùi nhùi khi bị những tia lửa bắt vào. “Đúng rồi, đúng là như thế! Làm sao ông biết? Căn buồng có cái lồng chim, và tôi không phải động đến chiếc giường tẹo nào…”

Anh gật đầu u ám. “Không có ai nằm trên đó đêm hôm trước.”

Cô ta dừng phắt lại. “Tôi không nói thế. Cô ấy đã tự dọn giường trước khi tôi đến; cô ấy rất gọn gàng, ngăn nắp, và thường tự làm mọi việc mà không chờ người khác.”

“Ai bảo cô thế, làm sao cô b…?”

“Cô ấy ở đó khi tôi vào mà. Quý cô xinh đẹp nhất tôi từng gặp; tóc vàng như thiên thần và giọng nói như trẻ thơ.”

Trong phòng ăn lớn, Durand quan sát, Downs đã giữ lại một chiếc đĩa sau khi ăn xong. Kết thúc bữa ăn, ngoại trừ hai người, những người khác đã rời khỏi chiếc bàn dài, Downs gọi một người phục vụ đến và nói, “Nhìn đây. Nhìn tôi làm cái này một lúc.”

Đoạn anh ta lấy chiếc khăn tay, trải trên bàn. Trong chiếc khăn, anh ta đặt vào nhánh rau diếp vốn trang trí cho đĩa đồ ăn của mình, gấp bốn góc khăn vào giữa, như một ảo thuật gia chuẩn bị khiến thứ gì đó biến mất.

“Anh có từng nhìn thấy ai làm thế, ở cuối bữa ăn không?”

“Ý ông là gấp khăn ăn của họ lại như…?”

“Không, không.” Downs phải mở ra cho anh ta thấy nhánh rau diếp, rồi biểu diễn lại. “Đặt một lá rau diếp vào trước, để mang đi. Nó là một chiếc khăn tay. Hãy nghĩ đến một thứ nhỏ hơn, nhỏ hơn nhiều, như một nhúm…”

Đến đây thì người phục vụ gật đầu. “Tôi đã thấy một quý cô làm thế, trong một chuyến tàu. Tôi đã băn khoăn cô ấy làm gì, nó chẳng có ý nghĩa gì cả, chỉ là một trò vặt cũ…”

Downs giơ một ngón tay ra hiệu. “Giờ anh hãy nghe cho kĩ. Cố nghĩ xem. Anh có nhớ cô ta đã làm thế mấy lần không? Sau mấy bữa ăn?”

“Chỉ một lần thôi. Chỉ một lần. Sau một bữa ăn. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy cô ấy, chỉ có đúng bữa ăn ấy.”

“Tôi không thể ghép hai người đó với nhau,” Downs thì thầm với Durand. “Người này kết thúc trước khi người kia bắt đầu. Nhưng nó đã xảy ra vào thời điểm nào đó trong đêm đầu tiên. Ở bữa tối người phục vụ đã thấy Julia thật lấy một nhánh rau diếp cho con chim của cô ấy. Lúc 8 giờ sáng cô hầu phòng bắt gặp một ‘thiên thần tóc vàng’ đã dọn xong giường, trong căn buồng có cái lồng chim.”

Điểm dừng đầu tiên, vào 8 giờ sáng hôm sau, Durand thấy Downs đang sửa soạn để đi.

“Anh định xuống ở đây sao?” Anh ngỡ ngàng hỏi. “Sớm vậy ư? Đã đi rồi sao?”

Downs gật đầu. “Điểm dừng đầu tiên của con tàu lần này cũng là điểm dừng đầu tiên của con tàu lần đó. Cùng một lịch trình. Đến thời điểm này cô ấy đã chết và chìm trong nước nhiều giờ đồng hồ. Đi tiếp qua đây sẽ chỉ đưa tôi ra xa theo từng nhát khua chèo thôi. Nào, hãy tiễn tôi ra cầu tàu.”

“Nếu cô ấy ở dưới kia,” anh ta hạ giọng khi họ cùng lên boong tàu trong sáng sớm mù sương. “Cô ấy sẽ trở về ở chỗ nào đó ngoài kia, trên mạch đường chúng ta đã đi đêm qua. Nếu cô ấy có dạt vào bờ… hoặc đã dạt rồi, không nhận dạng được hoặc thậm chí không được phát hiện… nó sẽ trở về chỗ nào đó ngoài kia. Tôi sẽ đi ngược lại dọc bờ sông, qua từng thôn xóm, rà soát từng mét đất; đi bộ nếu cần thiết. Đầu tiên ở bờ bên này, rồi sang bờ bên kia. Và nếu cô ấy chưa dạt vào bờ, tôi sẽ đợi cho đến khi cô ấy vào bờ.”

Mặt anh ta rực lên vẻ cuồng nhiệt không thể lý giải.

“Cô ấy quay lại, từ đáy sông, trong một xoáy nước lớn dưới thành phố Cape Girardeau, và tôi sẽ chờ cô ấy ở đó.”

Durand thấy lạnh người trước sự chuyển giọng ấy.

Downs đưa tay ra.

“Chúc anh may mắn,” Durand nói, bắt đầu sờ sợ con người này.

“Anh cũng vậy,” Downs đáp. “Sớm muộn gì anh cũng sẽ gặp lại tôi. Tôi không thể nói là khi nào, nhưng chắc chắn một ngày nào đó sẽ gặp lại.”

Downs đi xuống cầu tàu. Durand nhìn đầu anh ta chìm khỏi tầm mắt. Rồi anh quay đi với cơn rùng mình bất chợt. Câu cuối cùng mà người đàn ông đó nói với anh, kì lạ thay cứ lặp đi lặp lại trong đầu:

Anh sẽ gặp lại tôi vào một ngày nào đó. Chắc chắn anh sẽ gặp lại tôi vào một ngày nào đó.