← Quay lại trang sách

Chương 32

Anh sớm hình thành thói quen ghé vào quán bar của một trong những khách sạn gần đó, khách sạn Belleview House, vào khoảng 7 giờ mỗi tối để nhấm nháp một ly Whisky. Hoặc cùng lắm là hai ly, không hơn; vì nó không phải đồ uống anh thích, chỉ là để giết thời gian cho đến giờ ăn tối mà thôi. Anh chọn nó vì khách sạn anh ở không có hình thức kinh doanh này, và đây lại là quán bar gần nhất, lớn nhất trong các khách sạn có quán bar.

Đó là một nơi vui vẻ, nhộn nhịp, ồn ào, mang phong cách đặc trưng và hợp thời. Một quán rượu dành cho đàn ông. Và giống như tất cả những nơi khác về tính chất, mặc dù nó chỉ dành riêng cho đàn ông, song phụ nữ chưa bao giờ hiện diện rộng khắp đến thế trong suy nghĩ, tinh thần, ám chỉ và đối thoại, vì đây là nơi họ vắng bóng về mặt thể xác. Họ tràn ngập trong không khí, trong từng lộng ngữ, cái nháy mắt, lời chúc tụng, và bóng gió khoe khoang. Và họ ở đây theo ý muốn của cánh đàn ông, hiếm khi vượt khỏi những cánh cửa: một nơi bất thường. Ở mọi thời điểm và luôn chỉ tồn tại hồi ức.

Họ ngự trị trong cả biểu tượng. Trên bức tường đối diện quầy rượu bằng gỗ gụ hình móng ngựa, đèn vui tươi nhấp nháy hai bên - như những bóng đèn thờ trước miếu thờ của hiện thân người phụ nữ - tô điểm cho bức tranh sơn dầu lớn vẽ một người phụ nữ ngồi nghiêng, có lẽ là một nữ thần. Hai vị thần Cupid có cánh bay vòng quanh đầu nàng, dưới chân nàng ngập tràn trái cây và hoa. Chiếc váy tía xếp nếp trông như sắp bị cởi ra hơn là mặc vào; một cuộn len lăn xuống qua vai, một cuộn khác vắt ngang bụng. Đằng sau, và chưa người xem nào để ý đến từ khi bức tranh được treo lên, là màu trời trong xanh với những cụm mây trắng nõn.

Một nơi nổi bật như thế, và với một chủ đích khôn ngoan, đương nhiên nó là nơi đầu tiên Durand làm quen sau khi đến Bixoli. Người đàn ông gần anh nhất, trong lần thứ hai anh đến đây, cũng đi một mình, đang đứng dán mắt vào bức tranh, gần như chảy nước miếng với vẻ thèm khát ngu ngốc, đờ đẫn, khi Durand vô tình liếc ngang và bắt gặp vẻ mặt ấy.

Durand không nén nổi nụ cười khẽ, nhưng cười mình chứ không phải kẻ say mê đó; song đối phương, bắt gặp nụ cười nửa miệng đúng lúc nó sắp quay đi, cho rằng ý tưởng lớn gặp nhau, liền lập tức cười đáp lại, nhưng với vẻ bầy đàn đầy thân mật vốn không hề có.

“Chúa phù hộ họ!” Ông ta nồng nhiệt bình luận, giơ cao ly về phía bức tranh để Durand thấy.

Durand gật đầu tán thành một cách chừng mực.

Được khuyến khích, người đó cất cao giọng mời qua khoảng cách ba, bốn mét giữa họ, “Anh tham gia cùng tôi chứ?”

Durand chẳng hề mong muốn, nhưng nếu từ chối thì lại là thô lỗ một cách vô lý, nên tặc lưỡi bước tới chỗ “hàng xóm,” người này đã nhường lại một chỗ bên cạnh.

Vị trí của họ đã thay đổi, hai người chào hỏi nhau, cùng nâng ly và nhấp một ngụm: hoàn thành nghi thức xã giao.

Người đàn ông kia khoảng 45 tuổi, theo nhận định của Durand. Ông ta có khuôn mặt ưa nhìn, nhưng khá tàn tạ; những nếp nhăn vì ăn chơi phóng đãng, hơn là vì tuổi tác, in hằn trên đó, nhất là ở ngang trán. Nước da ông ta vàng vọt; tóc đen, nhưng có thể nhờ sự trợ giúp của một ít xi đánh giày; tuy nhiên đây chỉ là ước đoán. Ông ta thấp hơn Durand, nhung bệ vệ hơn, song theo cách phì nộn hơn là săn chắc.

“Anh đến đây một mình à?” Ông ta hỏi.

“Vâng,” Durand đáp.

“Tôi cũng vậy!” Ông ta hồ hởi. “Vậy chắc anh mới đến đây lần đầu?”

“Đúng vậy,” Durand thừa nhận ngắn gọn.

“Anh sẽ thích thôi, ngay khi biết về nó,” ông ta cam đoan. “Sẽ mất vài ngày, không cần biết là ở đâu.”

“Vâng,” Durand hờ hững đồng ý.

“Anh có nghỉ ở khách sạn này không?” Ông ta chỉ ngón tay cái về phía những cánh cửa dẫn vào tòa nhà. “Tôi ở đó đấy.”

“Không, tôi ở khách sạn Rogers.”

“Anh nên đến chỗ này, nơi tốt nhất. Bên chỗ anh chẳng phải rất buồn tẻ sao?”

“Tôi không để ý đến điều đó,” Durand trả lời. Đằng nào anh cũng không định ở lại quá lâu.

“Chà, biết đâu anh sẽ đổi ý,” đối phương vui vẻ gợi ý. “Biết đâu chúng tôi có thể làm anh đổi ý,” ông ta nói thêm, như thể mình làm chủ khu vui chơi này.

“Cũng có thể,” Durand tán thành, không nhiệt tình cho lắm. “Cạn ly,” anh mời cho phải phép, nhận thấy ly của đối phương đã gần hết.

“Rất hân hạnh,” người kia hào hứng, dốc một hơi cạn sạch.

Ngay khi Durand định gọi rượu, một thằng bé chạy việc đi qua cửa chính bằng kính của khách sạn, ngó dáo dác, rồi trông thấy ông bạn nhậu của Durand, liền đi đến, xin phép, và nói gì đó vào tai ông ta mà Durand không nghe được. Cái chính là vì anh cũng không muốn nghe.

“Đã xong rồi à?” Người đàn ông nọ nói. “Mừng vì cậu đã cho ta biết,” và cho thằng bé một đồng tiền. “Ta sẽ đến ngay.”

Ông ta quay lại với Durand. “Tôi có việc mất rồi,” ông ta vui vẻ nói. “Chúng ta sẽ phải nói tiếp chuyện dang dở, vào một tối khác.” Ông ta sửa sang lại diện mạo, chỉnh cà vạt, tóc, cầu vai áo vest. “Không được để phụ nữ phải chờ đợi, anh biết đấy,” ông ta thêm vào, không cưỡng nổi mà nói cho Durand biết mình bận việc gì.

“Dù với bất cứ lí do nào,” Durand đồng ý.

“Chúc anh buổi tối tốt lành!”

“Ông cũng vậy.”

Anh nhìn theo ông ta. Bộ dạng ông ta không có vẻ gì ung dung, từ lúc cất bước cho đến khi xô mạnh cánh cửa, lo sợ bị chậm trễ.

Durand cười thầm, nửa coi thường, nửa thương hại, và quay về tiếp tục với ly rượu.