Chương 33
Tối hôm sau, anh và người đàn ông đó gặp lại nhau. Ông ta đã ở đó khi Durand từ ngoài đường đi vào, thế nên anh nhập hội với ông ta, bỏ qua màn mời mọc, vì thông lệ của quán bar quy định anh nợ người kia một chầu rượu, và để lảng tránh ông ta - như anh ắt mong được làm thế - anh sẽ phải làm sao lảng tránh cả bổn phận.
“Tôi thấy anh vẫn đi một mình,” ông ta chào Durand.
“Vẫn thế,” Durand đáp một cách mơ hồ.
“Mà anh đến muộn đấy,” ông ta nhận xét vẻ phê bình. “Điều gì cản trở anh thế? Tôi cứ nghĩ bằng giờ này anh sẽ có một cơ số…,” ông ta không nói hết, nhưng thay bằng cái nháy mắt ướt át.
Durand cười nhạt và gọi rượu cho cả hai.
Họ nâng ly và uống.
“Mà xin tự giới thiệu,” ông ta sang sảng nói. “Tôi là Đại tá Harry Worth, cựu sĩ quan quân đội.” Cách nói của ông ta cho thấy là quân đội nào; hoặc đúng hơn, chỉ có thể là quân đội đó mà thôi.
“Tôi là Louis Durand,” anh nói.
Họ bắt tay, bước đầu làm quen.
“Anh đến từ đâu, anh Durand?”
“New Orleans.”
“Ồ,” vị đại tá gật gù tán dương. “Một nơi rất tuyệt. Tôi từng có thời gian ở đó.”
Durand không hỏi ông ta từ đâu đến. Anh không quan tâm, dòng suy nghĩ của ông ta đã tự nói lên điều đó.
Họ nói chuyện này chuyện kia. về tình hình làm ăn (cùng nhau nói). Về một cô gái nhỏ ở Natchez (vị đại tá nói). Về chính quyền hiện tại (cùng nhau nói, với vẻ chua chát, như thể nó là một ách áp bức của ngoại bang). Về một cô gái nhỏ ở Louisville (vị đại tá nói). Về những công thức pha chế rượu (cùng nhau nói), về ngựa, nòi giống và chuyện đua ngựa (cùng nhau nói), về một cô gái vàng ở Memphis (vị đại tá nói, kèm tiếng vỗ đùi đen đét).
Đúng lúc Worth định gọi thêm rượu, lại là thằng bé chạy việc đi đến, chào, rồi lại ghé tai ông ta thì thầm.
“Đến giờ rồi,” ông ta bảo Durand, chìa tay ra. “Hân hạnh được biết anh, anh Randall. Mong gặp anh vào lần sau.”
“Durand,” anh nói.
Đại tá dội ngược lại với vẻ cường điệu rất kịch, xin lỗi rối rít. “Đúng rồi, thứ lỗi cho tôi. Tôi cứ bị như thế suốt. Tôi tệ khoản nhớ tên lắm.”
“Không sao,” Durand bình thản đáp. Anh có cảm tưởng cái lỗi này sẽ tiếp tục lặp lại trong thời gian họ quen biết; một cái tên không nhớ đúng vào lần thứ hai, thì khó có thể nhớ đúng vào lần thứ tư hoặc thứ mười. Nhưng việc người đàn ông này có gọi nhầm tên anh hay không chẳng có ý nghĩa đối với anh, vì bản thân ông ta còn ít có ý nghĩa hơn.
Worth bắt tay anh, lần này với sự thân thiết thật tình. Đoạn ông ta quay người đi xuống quầy rượu, xịt dầu đinh hương vào miệng.
“Đề phòng nhỡ đâu,” ông ta nói với vẻ tinh quái.
Ông ta theo lối cửa sau, vào khách sạn. Durand, đang đứng gần bên ngoài quán cà phê, liền đi ra đường. Nhiều phút trôi qua, anh lơ đãng quay dầu, đúng lúc bắt gặp vị đại tá đi qua một lớp kính dày màu xanh lục chắn phía trước và phồng ra như một cửa sổ lồi.
Độ dày của lớp kính làm nhòe đi phần nào hình dáng, nhưng Durand có thể khẳng định đó là ông ta, ở phía bên kia cách chừng ba cái móng tay, gắn liền với ông ta, chỉ từng đó tiết lộ ông ta đang hộ tống một người phụ nữ. Ngang vai ông ta nhô ra một mẩu lông công nhuộm, từ chiếc mũ bonnet của người phụ nữ bị che khuất bên kia, như thể nó bị phóng đến cắm vào vai ông ta.
Ở eo lưng ông ta, và vươn ra xa hơn so với những đường nét giản dị của ông ta, là mớ bồng bềnh vừa khêu gợi song vẫn nhã nhặn, phồng lên theo bước chân của người mặc bên cạnh ông ta. Và cuối cùng, dưới gót chân ông ta, như thể một chiếc tất đã tuột xuống và kéo lê, là một mẩu viền váy hình tam giác, một chiếc váy dài buổi tối, rung rinh quét đất, ngoắt qua ngoắt lại từ bên này sang bên kia.
Nhưng Durand không để ánh mắt lãnh đạm của mình nán lại lâu hơn, để theo họ cho đến khi họ đi về phía trước đủ xa để tách thành hai người, thay vì ghép thành một, chồng lên nhau như hiện giờ.
Anh lại nở nụ cười mệt mỏi như tối hôm trước. Lần này lông mày nhướng lên, như muốn nói: mỗi người có một khẩu vị riêng.