Chương 35
Không hiểu sao, ngày hôm sau, anh quá mềm lòng trước cuộc hẹn để kịp gửi lời xin lỗi chiếu lệ, thế là trước khi anh nhận ra, buổi tối đã đến, cuộc hẹn coi như được mặc nhiên xác nhận, và đã quá trễ để anh rút lui mà không mắc tội khiếm nhã tột cùng. Nó ắt sẽ không thành vấn đề nếu anh hủy hẹn sớm hơn vài giờ.
Anh nằm trên giường, ăn vận chỉnh tề, chợp mắt một lúc vào xế chiều, và khi thức giấc thì giờ hẹn đã sát nút, chẳng thể làm gì nữa ngoài việc đi đến chỗ hẹn.
Anh thở dài và nhăn nhó trước gương, tuy nhiên vẫn bắt đầu những sự chuẩn bị cần thiết, khuấy mạnh cái chổi trong chiếc cốc sành đến khi bọt bồng lên, chảy thành những dòng nhỏ ngoài thành cốc. Mình có thể ở lại nửa tiếng, anh tự hứa, như bằng chứng là đã tham gia, sau đó sắp xêp một tay hầu bàn tối gọi mình đi bằng một lời nhắn giả, và ra về. Đảm bảo thanh toán phần của mình trước đó, để họ không nghĩ là mình kiếm cớ. Họ sẽ phật lòng, anh nghĩ, nhưng còn phật lòng hơn nếu mĩnh không xuất hiện.
Vững tin bởi ý định này, sau khi cạo râu và mặc áo sơ mi, anh xỏ tay vào áo vest, mở ví tiền để đảm bảo nó đã dày dặn, và ủ rũ xuất hành. Chưa có ai mang bộ dạng thiểu não và gương mặt chảy dài hơn trước khi tham dự cái được xem là một bữa tiệc vui vẻ như vậy. Anh lầm bầm chửi thề khi đóng cửa phòng sau lưng: rủa gã đại tá mê đàn đúm đã lôi anh vào chuyện này; rủa kẻ xa lạ mà anh được mong phải giở trò tán tỉnh chỉ vì cô ta là phụ nữ và vì thế có thể đẩy anh vào cái thế mà anh phải tuân theo; và anh nguyền rủa bản thân trước, vì đã không chai lì mà từ chối ngay tối qua, khi lời mời vừa đưa ra.
Một cô ả nhạt nhẽo, màu mè, tập hợp những gì thừa thãi ở tất cả mọi người. Anh có thể hình dung gu phụ nữ của vị đại tá qua con người ông ta.
Qua mười phút đi bộ trong tâm trạng châm biếm, dưới vòm trời nhiều sao đến nhức mắt, anh đã đến nơi.
Quán Grotto có kết cấu một tầng, dài và hẹp như cabin, bên ngoài hời hợt và tầm thường không khác những địa điểm vui chơi giải trí phù du khác. Ánh đèn khí đốt, đèn dầu tỏa ra từ mọi ngóc ngách của quán, nhuốm màu hồng và xanh lam bởi lớp phủ đặc biệt từ bên trong. Trong quán thấp hơn lối đi bộ bên ngoài do mặt nền bị hạ xuống, khiến anh phải bước xuống một dãy bậc thang ngắn ngay khi được một người gác cửa da đen cúi chào. Phòng ăn lớn, nhìn từ trên cao, là một mớ lộn xộn những mặt bàn phủ khăn trắng, những cái đầu rải quanh theo vòng tròn, và mỗi bàn đặt một ngọn đèn tỏa ánh hồng hoặc xanh lam, một sự cách tân vay mượn của châu Âu, khiến cho ánh sáng gắt, thường có ở những
nơi như vậy, dịu xuống thành mờ ảo, gợi lên những ham muốn cấm kỵ và lãng mạn lén lút. Nó tạo cho nơi này hình ảnh về cánh đồng đầy đom đóm nhấp nháy.
Người quản lí nhà hàng bảnh chọe, tóc mai hai bên quăn tít xù ra, cầm chéo quyển thực đơn như người họa sĩ cầm bảng màu, chào đón anh ở chân cầu thang.
“Ngài đi một mình ạ? Cho phép tôi tìm bàn cho ngài?”
“Không, tôi tới tham dự một buổi tiệc,” Durand nói. “Đại tá Worth và những người bạn. Trong một ô riêng. Họ ở đâu?”
“Ồ, đi thẳng ra sau, thưa ngài. Ở cuối phòng. Họ đang chờ ngài. Họ ở ô đầu tiên bên phải.”
Anh đi xuôi một hành lang trống ở giữa tới cuối phòng, như một người len lỏi qua đám cãi lộn, theo âm thanh và mùi vị, nếu không phải là gây gổ. Qua những thực thể hoặc những khu vực có mùi thức ăn riêng biệt, tách riêng ra theo từng hạt nhân của nó, không chịu trộn lẫn; nào tôm hùm, nào bít tết nướng than, nào vải lanh ướt sũng và rượu đổ tràn. Qua những đoạn hội thoại ngắt vụn và tiếng cười cũng bị ngăn riêng ra, đám nào biết đám đó.
“Đi với tôi, anh ta nói một đằng, đi với cô nàng tiếp theo, anh ta nói một nẻo. Ôi, tôi đã nghe tất cả về anh, anh đừng mong biết được!”
“… một chính phủ đã làm sụp đổ đất nước này! Và tôi không quan tâm có ai nghe không, tôi có quyền nói lên quan điểm của mình!”
“… giờ là phần hay nhất của câu chuyện. Đây là phần sẽ mở mắt cho anh…”
Ở phía cuối, căn phòng thu hẹp lại thành một hành lang phục vụ dẫn vào bếp. Tuy nhiên dọc hai bên là những lối mở vào những ô riêng hoặc những góc thụt mà Worth đã đề cập. Tất cả đều buông rèm kín đáo, dù răng chúng chẳng hề có cửa. Tuy nhiên ô gần nhất ở bên kia không song song hẳn với hành lang mà đặt chếch đi, tách riêng một góc.
Khi anh phóng ánh mắt vào ô bên phải, đánh dấu đích đến cuối cùng, còn cách một quãng ngắn, bị chắn bởi dãy bàn cuối cùng, thì tấm rèm che bị vẹt sang bên và một người hầu bàn bước ra, trong dáng điệu rút lui nhưng lừng chừng nán lại để nghe nốt chỉ dẫn. Trong lúc ấy, một tay anh ta giữ tấm rèm cách bức tường một khe hở hình viên kim cương.
Bàn chân Durand đang rảo bước chợt khựng lại, không bao giờ đi tiếp được nữa, không bao giờ đưa anh tiến gần hơn nữa.
Như thể nó là viên đá quý tinh khiết nhất, trong suốt nhất, gắn ở khe hở đó cho Durand nhìn, một viên đá sáng đến chói mắt, nổi bật trên tấm rèm nhung sẫm màu.
Ở một bên, lắc lư với những mệnh lệnh dành cho người hầu bàn, là một mảnh của thân hình phì nhiêu của ngài đại tá. Ở bên kia, đối diện ông ta, là hình dáng uyển chuyển của một phụ nữ lạ, tóc đen và mắt đen.
Ở giữa hai người, quay mặt ra ngoài, lộ nửa người, trắng như thạch cao, chói lọi như đá cẩm thạch, vương giả như Nữ thần Juno bé nhỏ, đẹp như Thần Venus tóc vàng hoặc nàng Helen thành Trojans, là gương mặt, cần cổ, đôi vai và nửa bộ ngực để trần mà anh không bao giờ quên, không thể nào quên, như thể một phép dịch chuyển thần kỳ đã đưa nó từ giấc mơ của anh ra hiện thực.
Julia.
Thậm chí anh có thể nhìn rõ ánh đèn trên tóc cô ta, phủ một lớp sóng sánh ánh vàng. Thấy cả tia sáng lướt qua như pha lê, khi mắt cô ta chuyển động.
Julia, kẻ sát nhân! Kẻ hủy hoại trái tim anh.
Không thể có chuyện cô ta không nhìn thấy anh ngoài này. Hai tròng mắt cô ta đang ở trực diện trước mắt anh. Hẳn là chúng đã hạ xuống, không để ý thấy ở khoảng cách đó, hướng vào một trong những người ngồi cùng bàn, bỏ qua anh.
Người hầu bàn bỏ tay xuống, tấm rèm về với bức tường, viên đá quý bị xóa đi.
Anh đứng đó chết lặng, như bị thui chột, bị cướp đi khả năng cử động, như thể cái tia trắng xóa nung đốt đó - đến rồi lại đi - là một tia sét đánh xuống quá gần và dính chặt anh vào mặt đất. Tác động duy nhất nó còn thiếu là khiến anh nằm ra đó trước mặt mọi người.
Rồi người hầu bàn, khi vội vã đi qua, liền va vào anh, đã khiến anh hoạt động trở lại; như một quả bóng va vào một quả bóng khác trên bàn bida, đẩy nó đi.
Anh đang đi ra theo hướng khác, hướng mà anh đã đến, lảo đảo, va vào những chiếc bàn và lưng ghế hai bên lối đi, qua những gương mặt tò mò ngẩng lên trong phút chốc. Qua một chuỗi đèn bàn nhòe nhoẹt như những đèn hiệu vô dụng chỉ gây hoang mang và chẳng dẫn được anh đi thẳng giữa chúng.
Anh tới được đầu bên kia của cái chốn lao xao này, và người quản lí lo lắng bước đến.
“Ngài không tìm thấy bạn của mình ư, thưa ngài?”
“Tôi… tôi đổi ý rồi.” Anh rút ví, dúi tờ 10 đô la vào tay gã. “Tôi chưa hề đến đây tìm họ. Anh không nhìn thấy tôi.”
Anh loạng choạng bước lên những bậc thang và ra ngoài, tròng trành như thể đã nốc đẫy rượu trong mấy phút qua. Thứ rượu căm thù, lên men từ những chùm nho uất hận.