Chương 38
Anh đứng bật dậy nhìn quanh. Lạ thay, ngần ấy thời gian ở trong phòng mà không tính đến chuyện náu mình, anh phải ứng biến ngay bây giờ. Nhìn thấy bức bình phong ở đó, anh liền chọn nó. Đó là cách trốn nhanh nhất và hiển nhiên nhất, cô ta đã đến gần cửa, vì anh có thể nghe thấy giọng cô ta, đang vui vẻ nói gì đó, ngay ngoài hành lang.
Anh mở rộng bức bình phong một chút, dựng các tấm vuông góc nhau, tạo thành một cột rỗng nhô ra, và chui vào trong. Anh thấy mình có thể đứng thẳng mà không lộ đỉnh đầu. Anh có thể nhìn qua những lỗ soi, như trên tấm đăng ten, ở mặt gỗ chạm trổ trên cùng, anh đặt mắt vào đó.
Cửa mở, cô ta đã tới.
Hai bóng người bước vào chứ không phải một; và chỉ đi vài bước qua cửa, họ lập tức quyện làm một, đứng khóa chặt lấy nhau trong cái ôm ngấu nghiến, trong bóng tối lờ mờ của gian sảnh nhỏ. Một vị cay thoang thoảng của hơi thở mang mùi rượu Champagne hoặc Brandy bay tới chỗ anh, trộn lẫn mùi nước hoa. Tim anh chìm xuống trong nó.
Không có chuyển động, chỉ có tiếng sột soạt của váy áo bị ép vào.
Tiếng cười của cô ta lại cất lên, nhưng nghèn nghẹt, bưng bít; giờ ở ngay đây nó lại nhỏ hơn lúc ở ngoài kia.
Anh nhận ra giọng của ngài đại tá, thì thầm khàn khàn. “Anh đã chờ đợi điều này cả tối nay. Cô bé của anh, cô bé của anh!”
Tiếng sột soạt mạnh lên thành chống cự.
“Harry, thế là đủ rồi. Em còn phải mặc lại bộ váy này. ít nhất hãy để em giữ nó nguyên vẹn.”
“Anh sẽ mua cho em bộ khác. Anh sẽ mua cho em mười bộ.”
Cuối cùng cô ta giãy ra, ánh sáng từ hành lang len vào giữa hai người; nhưng vòng ôm kia vẫn khóa cứng lấy cô ta như cái đai thùng. Durand có thể thấy cô ta đang đẩy hai tay của ngài đại tá xuống, không cho chúng lấn tới theo hướng suồng sã. Cuối cùng chúng rời ra.
“Nhưng em thích bộ này. Đừng sỗ sàng thế, em chưa thấy người đàn ông nào như vậy. Để em mở đèn lên. Chúng ta không nên đứng ở đây thế này.”
“Anh thích như vậy hơn.”
“Em không nghi ngờ điều đó!” Cô ta nói cộc lốc. “Nhưng đi thêm vài bước có khác gì!”
Lúc này cô ta đã bước hẳn vào phòng, tới chỗ ngọn đèn, và nó từ đốm lửa, nó bùng lên thành pháo hoa khi cô ta chạm đến. Và khi ánh sáng phủ lên cô ta, gột sạch tất cả những đường nét và hình dáng lờ mờ, cô ta sáng lên lấp lánh sống động trước mặt anh lần nữa, sau một năm một tháng và một ngày. Không còn là một ánh nhìn qua kẽ rèm, một tiếng cười vô hình dọc hành lang, một cái bóng in trên cánh cửa; cô ta hiện ra trọn vẹn, cô ta là thật, là chính cô ta. Cô ta đang ở độ xuân sắc nhất. Trong sự lộng lẫy và xấu xa; trong nhan sắc tuyệt trần và lừa lọc; trong sự kiêu sa và tầm thường.
Vết thương cũ trong tim Durand lại ngoác miệng và bắt đầu rỉ máu.
Cô ta ném cây quạt và chiếc khăn choàng xuống; rút chiếc găng tay vẫn cầm, gộp nó vào chiếc găng đeo hờ hững, và vứt cả hai xuống. Cô ta mặc chiếc váy xa-tanh màu đá thạch lựu, cứng và đanh như hồ bột, điểm những nếp cuộn, mạng gân đen lấp lánh. Cô ta cầm một bông phấn nhỏ lên chấm chấm sống mũi, nhưng theo thói quen hơn là dặm phấn thực. Và kẻ nịnh thần của cô ta đứng đó quan sát từng cử chỉ, tôn sùng, van xin cô ta, bằng cặp mắt hau háu đờ đẫn.
Cuối cùng cô ta ngoảnh đầu lại với ông ta, dáng vẻ thoải mái. “Chẳng phải như thế thật quá đáng với Florrie tội nghiệp sao? Anh nghĩ sao về người đàn ông mà anh sắp xếp cho cô ấy gặp mặt?”
“Ôi, quỷ tha ma bắt hắn đi!” Worth hùng hổ nói. “Có lẽ hắn quên béng rồi. Thật không xứng mặt đàn ông. Anh mà chạm mặt hắn lần nữa, anh sẽ ngó lơ.”
Cô ta đang chăm chút cho mái tóc. Vuốt nhẹ, không làm ảnh hưởng quá nhiều đến kiểu tóc. Hơi cúi xuống duyên dáng để nó nằm trọn trong gương. “Anh ta là người thế nào?” Cô ta hỏi vu vơ. “Anh ta có vẻ giàu có không? Anh có nghĩ là chúng ta… ý em là Florrie, sẽ thích anh ta không?”
“Anh không biết rõ lắm về anh ta. Tên là Randall hay gì đó. Anh chưa bao giờ thấy anh ta tiêu quá 50 xu cho mỗi ly Whisky.”
“Ồ,” cô ta đang cong người chợt khựng lại, ngừng tỉa tót mái tóc, như đã mất hứng thú với nó.
Cô ta đột ngột quay sang ngài đại tá, bàn tay đưa ra trong cử chỉ tạm biệt. “Cảm ơn anh vì một buổi tối dễ chịu, Harry. Như mọi buổi tối của anh, rất thú vị.”
Ông ta nắm lấy bàn tay nhưng giữ chặt trong hai tay mình.
“Anh không thể ở lại thêm một chút sao? Anh sẽ ngoan mà. Anh sẽ chỉ ngồi đây ngắm em thôi.”
“Ngắm em!” Cô ta thốt lên tinh nghịch. “Ngắm em làm gì? Em báo trước là không phải thứ anh thích đâu.” Cô ta đẩy nhẹ vai ông ta, gia tăng khoảng cách giữa họ.
Rồi nụ cười nhạt đi, cô ta dường như trở nên trầm ngâm, điềm đạm một cách buồn bã trong giây lát.
“Nhưng chẳng phải như thế thật quá đáng với Florrie tội nghiệp sao?” Cô ta nhắc lại, như phát hiện ra chút giá trị còn chưa chắt lọc hết trong lời nhận xét ban đầu.
“Ừ, anh cũng nghĩ vậy,” ông ta mơ hồ đồng ý.
“Cô ấy đã mất công bao nhiêu cho vẻ ngoài của mình. Em phải cho cô ấy mượn tiền sắm bộ váy ấy đấy.”
Lập tức ngài đại tá buông cô ta ra. “Ồ, đây. Để anh. Sao em không nói sớm?” Ông ta mò mẫm bên trong áo vest, lấy ví tiền, mở ra và loay hoay với nó.
Cô ta liếc nhanh xuống chiếc ví, rồi suốt thời gian còn lại, cho đến khi ông ta xong việc, nhìn mơ màng qua ông ta tới cuối căn phòng.
Ông ta đặt thứ gì đó vào tay cô ta.
“À, và trong lúc anh nghĩ đến nó…,” ông ta nói.
Ông ta tiếp tục lần mò chiếc ví, đặt thêm một thứ vào bàn tay bất hợp tác, song không cự tuyệt của cô ta.
“Cho hóa đơn khách sạn,” ông ta nói. “Vì thể diện, tốt hơn em hãy trực tiếp thanh toán.”
Cô ta xoay người, quay lưng về phía ông ta. Tuy nhiên khó mà do tự ái hay kiêu kỳ, vì cô ta nói vẻ trêu chọc. “Giờ thì cấm được nhìn. Ít nhất là qua vai trái em.”
Những nếp váy xa-tanh một bên bị vén lên trong phút chốc, để lộ ánh lấp lánh thướt tha của lớp lụa màu đen khói. Worth, đã kiễng hết chân cho cao hơn, đang nhìn hau háu qua vai phải cô ta. Cô ta quay mặt về phía ông ta, ném một ánh nhìn ranh mãnh, nháy mắt, và những nếp váy lại buông xuống sàn, với một tiếng rơi êm ái.
Worth nhào tới, và họ lại gắn làm một, lần này trong ánh sáng chan hòa giữa phòng, không phải trong ánh nhập nhoạng ngoài cửa.
Durand cảm thấy tay mình nặng trĩu, anh nhìn xuống và nhận thấy mình đã rút khẩu súng ra. Mình sẽ giết cả hai kẻ đó. Những con chữ bỏng rẫy ấy lướt qua tâm trí anh.
“Và giờ thì…?” Worth nói, môi vùi vào cổ và vai cô ta. “Em có vui lòng gia ơn…”
Durand có thể thấy đầu cô ta ngoảnh đi, mỉm cười rộng lượng, nhưng vẫn ngoảnh đi khỏi ông ta. Cô ta xoay người ra cửa, khiến cho ông ta xoay theo; rồi không hiểu làm thế nào kéo được ông ta về phía đó, mặt và vai cô ta vẫn chìm trong những nụ hôn bất tận của ông ta. “Không…,” thỉnh thoảng cô ta lại vỗ về. “Không… Không… em rất tốt với anh đấy chứ, Harry. Lúc nào em chẳng tử tế với anh, không hơn không kém… giờ hãy làm cậu bé ngoan nào…”
Durand thở phào nhẹ nhõm, cất súng đi.
Lúc này cô ta đang đứng trước khoảng cửa mở, còn lại một mình, cánh tay vươn ra bên ngoài. Worth hẳn đang hôn tới tấp lên nó, trong khoảng thời gian cô ta duy trì tư thế đó.
Tất cả những gì anh nghe được là tiếng thì thầm bập bõm của sự chia tay miễn cưỡng.
Cô ta dùng hết sức rút tay về, đóng cửa lại.
Anh nhìn rõ mặt cô ta khi cô ta trở vào trong ánh đèn sáng. Tất cả những tinh nghịch, làm duyên làm dáng như đã bị một miếng bọt biển xóa sạch. Nó khôn ngoan, tính toán và một chút nhăn nhó, như thể vì đeo mặt nạ quá lâu.
“Chúa ơi!” Anh nghe thấy cô ta rên lên mệt mỏi, và thấy cô ta đưa tay đỡ thái dương.
Cô ta đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, giống như anh lúc nãy; đứng bất động một lúc. Rồi sau khi đã thỏa thuê với bất cứ cảm nghĩ nào mà khung cảnh ngoài đó thấm vào người, cô ta đột ngột quay đi, với vẻ nôn nóng, khiến tà váy xoay tròn và rít lên trong thinh lặng. Cô ta đi về chiếc tủ, tìm một ngăn kéo. Không dặm phấn lên mũi, không sửa sang đầu tóc, không buồn nhìn vào gương nữa.
Cô ta rút tiền từ mép chiếc tất dài ra và ném vào ngăn kéo, với động tác xoay cổ tay gần như nhạo báng. Nhưng có lẽ không phải vì số tiền, mà là nguồn gốc của nó.
Thò tay vào một chỗ kín đáo trong ngăn kéo, cô ta moi ra một trong những điếu thuốc thanh mảnh mà thím Sarah đã cho anh xem ở ngôi nhà trên đường St. Louis ở New Orleans.
Đối với anh, có cái gì đó ghê tởm, gần như đồi bại, trong cảnh cô ta cúi xuống ngọn đèn cho đến khi điếu thuốc bén lửa; cắn nó giữa hai hàm răng, khói thuốc tuôn ra từ hai cánh mũi nhỏ xinh, như một gã đàn ông.
Trong một ảo cảnh kinh tởm, chỉ kéo dài giây lát, cô ta hiện ra trước mắt anh như một con quỷ phun lửa, đầu có sừng, trong chiếc váy đuôi dài màu hung đỏ.
Ngay sau đó, cô ta đặt điếu thuốc xuống chiếc khay để cặp tóc, và ngồi trước gương. Cô ta gỡ những chiếc cặp tóc ra và mái tóc đổ xuống như dòng thác màu mật ong tới eo lưng. Đoạn cô ta mở một cái lỗ bên sườn chiếc váy, tháo một số móc cài khỏi khuyết, nhưng không kéo hay cởi ra xa hơn. Chừa ra một khoảng hở mà qua đó lớp đăng ten bó sát bên người phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở cô ta.
Bây giờ, cô ta lấy ra số tiền vừa mới ném vào, nhưng còn lấy nhiều hơn chỗ đó, và đếm một cách chăm chú. Rồi cô ta cất nó vào một chiếc hộp nhỏ quét sơn, loại hộp thường dùng để đựng nữ trang, khóa lại, gõ những khớp ngón tay lên nắp hộp vẻ gửi gắm, như thể cuối cùng đã hài lòng.
Cô ta đóng ngăn kéo, đứng dậy, đến bàn giấy, hạ nắp xuống và ngồi lên. Cô ta rút một tập giấy viết trên giá. Lấy một cây bút và chấm mực, giơ cánh tay kia lên phía trên mặt bàn, bắt đầu viết.
Durand ra khỏi bức bình phong và chầm chậm đi qua tấm thảm tới gần cô ta. Bước chân không gây tiếng động, dù anh không cố tình giữ im lặng. Anh tiến đến mà không bị phát hiện, cho đến khi đứng sau lưng cô ta, và có thể nhìn xuống qua vai cô ta.
“Gửi Billy,” tờ giấy viết. “Tôi…”
Cây bút đã dừng, cô ta đang cắn đầu bút.
Anh đưa tay ra và để nó khẽ khàng đậu xuống vai cô ta. Để nó ở đó, nhưng thật nhẹ nhàng, như cô ta đã từng đặt tay lên vai anh, nhẹ nhàng, trên bến cảng ở New Orleans; nhẹ nhàng, nhưng phá nát đời anh.
Sự hốt hoảng của cô ta là hốt hoảng của tội lỗi, không phải ngây thơ. Thậm chí trước khi cô ta biết đó là ai. Vì cô ta không quay lại nhìn, như một người có trái tim trong sáng ắt sẽ làm. Cô ta giữ đầu thẳng đơ như cũ, cổ cứng lại chờ đợi. Cô ta sợ phải nhìn. Hẳn quãng đời cô ta đã đi qua rải đầy tội lỗi, đến với độ cái chạm bất ngờ của bất cứ ai, trong đêm tĩnh mịch, trong căn phòng vắng, cô ta cũng biết chắc không phải điềm lành.
Bàn tay cô ta mềm nhũn, đánh rơi cây bút, bàn tay kia lén cào tờ giấy, vo lại, khiến nó biến mất; rồi thả nó, nhăn nhúm, qua bên kia bàn.
Cô ta vẫn không cử động, mái tóc mượt màu kẹo bơ im phăng phắc, như đợi lưỡi rìu chuẩn bị chém xuống.
Lúc này mắt cô ta đã nhìn thấy anh trong gương. Nó ở bên trái cô ta, và khi anh nhìn mình trong đó, anh có thể thấy, trong hình ảnh phản chiếu gương mặt trắng bệch của cô ta, đôi đồng tử đen lại ở tận góc khóe mắt, tạo nên vẻ xấu xí khác thường, như thể cô ta có nhãn cầu màu đen.
“Cứ quay lại nhìn không phải sợ, Julia,” anh mỉa mai nói. “Chỉ có mình tôi thôi. Không có nhân vật nào quan trọng. Có mình tôi thôi.”
Đột nhiên cô ta quay lại, nhanh đến nỗi sự thay thế mái tóc óng mượt đằng sau bằng gương mặt trắng toát gần như một sự biến hóa ma quỷ.
“Cô cứ làm như không nhớ ra tôi vậy,” anh ôn tồn nói. “Chắc chắn cô chưa quên tôi, Julia. Trong bao người.”
“Làm sao anh biết em ở đây?” Cô ta hỏi một cách cẩn thận.
“Tôi không hề biết. Tôi chính là người được sắp xếp gặp cô ở nhà hàng tối nay.”
“Sao anh vào được đây?”
“Qua cửa.”
Cô ta đã đứng lên, vẻ đề phòng, và đang cố đẩy chiếc ghế để nó chắn giữa hai người, với khoảng cách vốn đã hẹp, nhưng không có chỗ cho nó chen vào nữa.
Anh giằng nó từ tay cô ta và đặt xuống.
“Sao cô không đuổi cổ tôi khỏi phòng, Julia? Tại sao cô không dọa sẽ hét lên cầu cứu? Hoặc làm tất cả những việc khác mà người ta thường làm?”
Cô ta nói, huy động được sự ứng biến tuyệt vời, mà anh không thể không thán phục trong khoảnh khắc, “Đây là vấn đề phải được thu xếp giữa hai ta, không có gào thét hay đuổi anh ra khỏi phòng.” Cô ta vuốt một cánh tay, run rẩy, ngược lên tận vai. “Hãy giải quyết nó càng nhanh càng tốt.”
“Tôi đã mất hơn một năm,” anh nói. “Hi vọng cô sẽ không hẹp hòi mà cho thêm vài phút?”
Cô ta không trả lời.
“Cô sắp lấy ngài đại tá à, Julia? Như thế là có hai chồng đấy.”
Cô ta nhún vai bực bội. “Ồ, ông ta chỉ là một thằng ngốc. Không trông mong gì được. Thế gian này chỉ toàn những tên ngốc.” Ít nhất trong câu nói này có sự thành thật không thể nhầm lẫn.
“Và tên ngốc vĩ đại nhất trong số đó là kẻ đang đứng trước mặt cô đây, Julia.”
Anh dùng mũi chân đá miếng giấy bị vo tròn, khiến nó lăn đi một chút. Nhưng nhẹ nhàng, như thể nó giữ những hi vọng vỡ nát của người nào đó.
Billy là ai?”
“Ồ, không có gì đặc biệt. Một người quen tình cờ. Một người em đã gặp ở đâu đó.” Cô ta vung tay lên, vẫn với vẻ lo lắng kích động, như thể làm thế sẽ khiến người đó biến mất khỏi tầm mắt.
“Thế giới hẳn phải đầy rẫy những Billy dành cho cô. Những Billy, Lou và Đại tá Worth?”
“Vậy sao?” Cô ta nói. “Không, chỉ có một Lou thôi. Có thể bây giờ nói ra thì đã muộn. Nhưng em không kết hôn với những Billy và Đại tá Worth. Em chỉ kết hôn với anh thôi.”
“Cô đã diễn vai đó,” anh đồng ý một cách châm chọc.
“Ồ, đã muộn rồi,” cô ta nói. “Giờ tính sao đây?”
“Chí ít chúng ta cũng nhất trí về chuyện đó.”
Cô ta đi tới chiếc đèn, chầm chậm xòe bàn tay đặt lên nó, khiến da cô ta ửng lên màu đỏ gạch, và quan sát hiệu ứng ấy hồi lâu. Rồi cô ta quay sang anh.
“Nói đi, Lou? Anh định xử lí em thế nào?”
Bàn tay anh từ từ đưa lên chỗ áo vest nơi che phủ khẩu súng đang áp vào ngực, để ở đó một lúc, rồi luồn vào trong tìm báng súng. Rồi anh từ từ rút nó ra, báng súng bằng ngà, ổ đạn mạ kền và nòng súng khía rãnh, dường như mãi mãi không dừng lại, như kéo một chuỗi dài vô tận.
“Tôi đến đây để giết cô, Julia.”
Cô ta chỉ liếc mắt qua. Đủ để xác định nó, để thấy rằng anh có phương tiện để làm việc đó. Sau đó mắt cô ta chỉ tập trung vào anh, không rời một khắc. Cô ta biết dấu hiệu nằm ở đâu: trong mắt anh chứ không phải khẩu súng; biết nơi duy nhất để khẩn cầu nằm ở đâu: trong mắt anh.
Cô ta nhìn anh hồi lâu, như đo lường khả năng anh thực hiện nó: điều anh đã nói. Cái cô ta nhìn thấy, chỉ cô ta mới biết được. Nó có trúng đích, không thể chệch hướng, hay chỉ trúng một phần, chờ đợi bị vỡ vụn?
Anh không giương nó lên, không chĩa nó vào cô ta; anh chỉ cầm nó bên sườn, họng chếch đi. Nhưng gương mặt anh trắng bệch với nỗi đau dai dẳng mà cô ta đã gây ra, và bất kể cô ta có đọc thấy gì trong ánh mắt anh, vẫn chỉ cần một cú xoay cổ tay của anh là xong.
Có lẽ cô ta là một con bạc sành sỏi, theo bản năng thích đặt cược, nó hấp dẫn, kích thích cô ta; cô ta ghét đặt cược vào những cái chắc chắn. Hoặc có lẽ trái lại: cô ta không phải là tay đánh bạc, mà chỉ dựa vào điều gì chắc chắn, không chọn cái nào khác, đàn ông hay những lá bài; và đây là một điều chắc chắn, mặc dù bản thân anh cũng chưa biết. Hoặc có lẽ lại cái tính kiêu căng, hợm mình đã thúc đẩy, và cô ta phải thử quyền lực của mình đối với anh, cho dù thua nghĩa là chết. Thậm chí có lẽ, nếu thua, cô ta sẽ muốn chết, kiêu căng là vậy.
Cô ta mỉm cười với anh. Nhưng trong sự thách thức dễ vỡ, không gì khác.
Bỗng cô ta giật mạnh vai áo, xé rách nó. Rồi kéo mạnh xuống dưới, dưới nữa, rút cánh tay khỏi cái vòng bùng nhùng mới tạo ra, để một nửa người trắng nõn của cô ta lộ ra đến tận eo. Ở bên trái, nơi có trái tim. Cùng lúc đó cô ta từng bước tiến về phía anh. Trắng như sữa và mềm như lụa Trung Hoa, da thịt dập dờn uyển chuyển theo nhịp bước. Rồi dừng lại khi khẩu súng lạnh ngắt chạm vào cô ta, giữ nguyên chiếc váy tơi tả như thế và nhìn sâu vào mắt anh.
“Được rồi, Lou,” cô ta thì thầm.
Anh rút khẩu súng về.
Được thể cô ta tiến thêm bước nữa.
“Đừng do dự, Lou,” cô ta thở ra. “Em đang chờ đây.”
Anh nhích gót ra sau, tạo một khoảng cách mảnh như sợi tóc. Anh nhét súng vào túi áo ngoài, để thoát khỏi nó, một cách vội vã, lóng ngóng, bất cẩn, để báng súng chĩa ra ngoài.
“Che người lại đi, Julia,” anh nói. “Cô hở hang quá.”
Đã có câu trả lời. Nếu cô ta là một con bạc, cô ta đã thắng. Nếu không phải, cô ta đã đọc đúng ánh mắt anh ngay phút đầu tiên. Nếu sự kiêu căng đã đẩy cô ta cận kề nguy hiểm, nó đã chiến thắng, nó vẫn nguyên vẹn, không sứt mẻ.
Cô ta không có phản ứng gì, kể cả hân hoan. Niềm hân hoan thường có khi chiến thắng một đối thủ ngang cơ. Gương mặt anh lấm tấm mồ hôi, như thể anh mới là kẻ mạo hiểm.
Cô ta kéo những mảnh vải áo lên, không phải về chỗ cũ mà chỉ che đậy một phần.
“Vậy nếu không giết em, thì anh muốn gì ở em?”
“Đưa cô về New Orleans và giao cho cảnh sát.” Như không thoải mái trước sự đối đầu sát sạt của họ, anh tách ra, đi sang một bên. “Cô chuẩn bị đi,” anh nói qua vai.
Đột nhiên anh cúi đầu, nhìn chằm chằm xuống ngực mình, như bất ngờ kinh ngạc. Hai cánh tay cô ta đã luồn xuống dưới qua vai anh, mềm như những dải lụa trắng, và đang cố gắng nối vào nhau trước người anh trong vòng ôm khẩn khoản. Anh có thể cảm thấy mái tóc mềm mại của cô ta cọ vào dưới gáy anh.
Anh gõ chúng, hất xuống, đẩy cô ta ra. “Cô chuẩn bị đi,” anh nói cương quyết.
“Nếu là vì tiền, đợi đã… em có một ít đây, em sẽ đưa cho anh. Nếu không đủ, em sẽ kiếm thêm… em thề là em sẽ…”
“Không phải vì chuyện đó. Cô là vợ hợp pháp của tôi, vì thế chuyện đó không vi phạm pháp luật.”
“Vậy thì để làm gì?”
“Để trả lời chuyện gì đã xảy ra với Julia Russell. Người thật. Cô chưa bao giờ là Julia Russell. Cô đã mạo danh đúng không?”
Cô ta không đáp. Bây giờ anh có thể nhìn ra nỗi sợ hãi lớn hơn lúc có khẩu súng. Mắt cô ta mở to hơn, căng thẳng hơn, rất rõ ràng.
Cô ta rời khỏi cái ngăn kéo mình đã mở ra, cúi xuống định lấy tiền, và tiến về phía anh.
“Để cho họ biết cô đã làm gì với cô ấy,” anh nói. “Và có một cái tên cho việc đó. Cô có muốn nghe không?”
“Không! Không!” Cô ta phản đối, thậm chí ngửa hai lòng bàn tay về phía anh lúc bước đến gần, nhưng cô ta phản đối ý tưởng anh đề cập, hay âm thanh của cái từ anh sắp thốt ra, anh không thể biết chắc. Có vẻ gần như là vế sau.
“Giết n…,” anh mở miệng.
Hai bàn tay cô ta chặn miệng anh, khiếp sợ. “Không, không! Lou, đừng nói thế. Em không liên quan. Em không biết chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Hãy nghe em nói. Lou, anh phải nghe em nói!”
Anh cố xô cô ta ra như lúc trước, nhưng lần này cô ta bám chặt, không chịu thua. Đôi tay anh hất ra, cô ta lại nhào vào.
“Nghe điều gì? Những lời dối trá nữa ư? Cuộc hôn nhân của chúng ta là sự dối trá. Từng lời cô nói với tôi, từng hơi thở của cô trong khoảng thời gian đó là dối trá. Cô sẽ nói chúng với cảnh sát, không phải với tôi nữa. Tôi không muốn nghe một lời nào nữa.”
Cái từ đó, chính là cái từ đã khiến cô ta cứng người trước đó, dường như là mối kinh sợ đặc biệt với cô ta. Cô ta thất thần, rên rỉ đứt quãng, âm thanh yếu đuối dầu tiên cô ta phát ra. Hoặc giả như nó là một mánh khóe, cố tình yếu đuối làm anh mủi lòng, thì nó rất thành công, vì anh xem nó là sự yếu đuối, và do đó nó đã đạt mục đích.
Vẫn bám chặt hai ve áo anh, cô ta quỳ sụp xuống, khom mình trong dáng vẻ cầu xin quỵ lụy nhất.
“Không, không, lần này là sự thật!” Cô ta nức nở từng cơn. “Chỉ có sự thật, không gì khác! Chỉ cần anh nghe em, cho em nói…”
Cuối cùng anh thôi tìm cách thoát khỏi cô ta, và đứng im tại chỗ.
“Cô biết à?” Anh hỏi vẻ khinh bỉ.
Nhưng cô ta đã được lắng nghe.
Hai tay cô ta buông thõng khỏi anh, cô ta quay đầu đi và áp tay lên miệng. Trong sự vội vã tìm ý, hay lấy tinh thần trước khi thổ lộ nỗi lòng, anh không thể biết được.
“Trước mắt chưa có chuyến tàu nào,” anh bất đắc dĩ nói. “Tôi không thể đưa cô đến nhà ga trong tình trạng hiện giờ và để cô dây dưa với tôi ở đó qua đêm, nên nếu cô muốn thì cứ nói.” Anh buông mình xuống một chiếc ghế, nới rộng cổ áo như thể kiệt sức bởi áp lực hai người vừa trải qua. “Nó sẽ không có tác dụng gì với cô hết. Tôi xin báo trước, kết quả vẫn như vậy. Cô sẽ về New Orleans với tôi để đối mặt với công lý. Tất cả những giọt nước mắt, quỳ gối và van xin của cô đều là phí phạm!”
Không đứng dậy, cô ta cứ quỳ như thế nhích về phía anh, nên khoảng cách giữa họ lại thu hẹp, cô ta ở ngay dưới chân anh, ăn năn, hèn mọn, hai bàn tay đặt lên tay ghế của anh.
“Không phải. Em không làm chuyện đó. Anh ta hẳn đã làm gì đó với cô ấy, vì em không bao giờ gặp lại cô ấy nữa. Nhưng làm gì thì em không biết. Em không chứng kiến. Anh ta chỉ đến gặp em sau đó, nói rằng cô ấy đã gặp tai nạn, và em sợ không dám hỏi thêm…”
“Anh ta?” Anh mỉa mai.
“Người đàn ông em đi cùng trên tàu.”
“Người tình của cô,” anh nói vô cảm, cố gắng không để cô ta trông thấy mình nuốt xuống cái cục cay đắng mắc ở cổ họng.
“Không!” Cô ta quyết liệt nói. “Anh ta không phải! Tùy anh tin hay không, nhưng từ đầu đến cuối đều không phải. Đó thuần túy là thỏa thuận làm ăn. Trước anh ta, em cũng không có ai cả. Em đã tự học cách lo cho bản thân từ khi em xuất hiện trên đời, và bất kể em đã làm những việc sai trái hay đúng đắn, em cũng không có người đàn ông nào khác ngoài anh, Lou. Không có người nào cả, cho đến khi em cưới anh.”
Anh tự hỏi vì sao mình lại cảm thấy nhẹ nhõm bao nhiêu so với một phút trước đó, và nghiêm khắc cảnh cáo bản thân không được như vậy, song vô ích.
“Julia,” anh kéo dài giọng quở trách, như thể không tin chút nào. “Cô đòi hỏi tôi phải tin cô sao? Julia, Julia?”
“Đừng gọi em là Julia,” cô ta lẩm bẩm vẻ hối hận. “Đó không phải tên em.”
“Cô có tên chứ?”
Cô ta liếm môi. “Bonny,” cô ta thú nhận. “Bonny Castle.”
Anh gật gù đậm vẻ chế nhạo. “Với ngài đại tá, cô là Bonny. Với tôi là Julia. Với Billy, là một cái tên khác. Với người đàn ông tiếp theo, lại một cái tên khác nữa.” Anh ghê tởm quay mặt khỏi cô ta, rồi liếc lại. “Đó là tên cô được đặt? Là tên Thánh của cô à?”
“Không,” cô ta nói. “Em chưa bao giờ được đặt tên. Em chưa bao giờ có tên Thánh.”
“Tôi tưởng ai cũng có một cái tên.”
“Em thì không có. Anh cần phải có bố và mẹ để đặt tên cho anh. Một cái giỏ đựng đồ giặt ở ngưỡng cửa không thể cho anh điều đó. Giờ thì anh hiểu chưa?”
“Vậy nó từ đâu ra?”
“Từ một tấm bưu thiếp,” cô ta đáp, và chút bất cần cùng oán hận vẫn đọng lại khiến cô ta ngẩng cao đầu trong giây lát. “Một tấm bưu thiếp từ Scotland gửi đến trại trẻ, vào một ngày năm em 12 tuổi. Em cầm nó lên nhìn trộm, trên đó là cảnh tượng đẹp nhất em từng thấy, những bức tường phủ dây dây thường xuân và mặt hồ xanh biếc. Và nó có chữ ‘Bonny Castle’. Em không biết nghĩa là gì, nhưng em liền lấy nó làm tên mình. Trước đấy ở trại trẻ người ta gọi em là Josie. Em ghét nó. Dù sao nó cũng chẳng hợp pháp gì hơn cái tên này. Từ đó trở đi em dùng cái tên ấy, vì thế tính theo thời gian sử dụng nó là tên chính của em, nếu không còn căn cứ nào khác. Ngoài mấy giọt nước thánh vẩy lên đầu anh thì khác nhau chỗ nào nào? Anh cứ tha hồ mà cười đi,” cô ta lạnh lùng cổ vũ.
“Tôi không biết,” anh nói nhát gừng. “Cô đã giải quyết chuyện đó mà. Cô ở trại trẻ trong bao lâu?”
“Đến năm em 15 tuổi, hoặc gần như thế. Em làm gì có ngày sinh chính xác. Em cũng tự giải quyết chuyện đó luôn. Em tự đặt ngày sinh, y như đặt tên. Em chọn ngày Thánh Valentine, vì đó là một ngày vui. Nhưng được một thời gian em thấy chán, thế là em bỏ.”
Anh nhìn cô ta chằm chằm không nói.
Cô ta thở dài mệt mỏi, và hít một hơi mới để tiếp tục.
“Dù sao đi nữa, em đã bỏ trốn khỏi đó năm 15 tuổi. Người ta vu cho em tội trộm cắp, trước đấy họ đã đánh đập em. Ở tuổi 13 em không còn cách nào khác ngoài chịu đựng, nhưng đến 15 tuổi thì không. Ban đêm em trèo qua tường. Mấy đứa con gái đã giúp em, nhưng chúng nó không đủ can đảm để đi cùng em.” Và rồi cô ta nói với kiểu thờ ơ kì lạ, trầm tư, như thể đang nói về một người khác. “Ít nhất em chưa bao giờ là một kẻ hèn nhát.”
“Cô chưa bao giờ hèn nhát,” anh tán thành, như tìm thấy cái cớ nhỏ để hài lòng trong lời đánh giá này.
“Ở Pennsylvania trời lạnh cóng,” cô ta tiếp tục. “Em lê bước trên vệ đường suốt nhiều giờ đồng hồ, mãi đến khi một người đánh xe bò cho đi nhờ…”
“Cô đến từ miền Bắc? Tôi không ngờ đấy. Cô không nói như người vùng đó.”
“Miền Bắc, miền Nam,” cô ta nhún vai. “Như nhau cả. Đến nơi nào em nói giọng địa phương nơi ấy, cho đến khi chuyển đi.”
Và luôn luôn nói dối, anh nghĩ, không bao giờ nói thật.
“Em đến Philadelphia. Một bà già đã cưu mang em một thời gian, một mụ phù thủy. Mụ ta thấy em nằm gục trên đường. Ban đầu em cứ tưởng mụ là người tử tế, nhưng không phải. Sau khi cho em ăn uống và nghỉ ngơi vài ngày, mụ bắt em mặc bộ quần áo của một đứa trẻ nhỏ hơn…! Rất nhỏ… và mang em đến các cửa hàng. Mụ nói, ‘Nhìn tao đây!’ và thị phạm cho em cách xoáy đồ từ những giá hàng mà không bị phát hiện. Cuối cùng em cũng trốn khỏi mụ ta.”
“Nhưng không phải không đi hành nghề trước đó.” Anh nhìn chăm chú để xem cô ta có chịu trả lời không.
Cô ta không dừng lại để lấy hơi. “Không phải không đi hành nghề trước đó. Bà ta sẽ chỉ cho em ăn khi em làm việc.”
“Và sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Em làm quét dọn lau chùi, một công việc nô lệ; em làm việc ở lò nướng bánh, phụ làm bánh mì; em còn làm cả thợ giặt. Phần lớn thời gian em là kẻ lang thang hơn là có chỗ ngủ.” Cô ta ngoảnh đầu đi một lát, cổ tạo thành một đường cứng đờ. “Em không còn nhớ rõ những ngày ấy nữa. Với lại em không muốn nhớ.”
Có lẽ cô ta đã bán mình trên đường phố, anh nghĩ, và trái tim anh phát bệnh trước suy đoán ấy, như thể cô ta là người yêu dấu của anh ở thực tại.
Như có một sự thấu suốt kì lạ, ngay sau đó cô ta nói. “Có một nghề mà em có thể sống được, nhưng em sẽ không chọn nó.”
Nói dối, anh thề là cô ta nói dối, nhưng trái tim vẫn reo vui.
“Một đêm em đã bỏ chạy khỏi một người phụ nữ dụ dỗ em vào nhà bà ta uống trà.”
“Thật đáng khâm phục,” anh lãnh đạm nói.
“Ồ, đừng tin vào sự tốt đẹp của em,” cô ta nói, với sự thành thật đột ngột. “Cứ xem em là loại hư hỏng thì hơn. Hồi đó em ghét cả loài người, vì những gì em trải qua: đàn ông, đàn bà, trẻ con. Em sẽ không cho ai thứ họ muốn ở em, vì không ai cho em thứ em muốn ở họ.”
Anh lặng thinh nhìn xuống, cuối cùng đã mềm lòng trong giây phút, lần này là cả lí trí và tình cảm.
“Em sẽ nói thật ngắn gọn. Về những chuyện đã xảy ra trên sông mà anh rất muốn biết. Em gặp một gánh hát rong, và đi theo họ. Họ không biểu diễn ở những rạp chính thức, vì không có tiền chi trả. Họ đi khắp nơi và dựng lều để diễn. Ở đó em làm quen với một người đàn ông là tay đánh bạc nhà nghề trên những con tàu chở khách trên sông. Cô gái từng là đồng bọn của anh ta đã bỏ anh ta để lấy một chủ đồn điền - hoặc ít nhất thì anh ta bảo em thế - và anh ta đang tìm người thay thế. Anh ta sẽ chia lợi nhuận nếu em tham gia.” Cô ta phẩy tay. “Xét cho cùng nó chỉ là một kiểu diễn xuất. Lại dễ chịu hơn những công việc em từng làm.” Cô ta dừng lại.
“Anh ta chính là kẻ đó,” cô ta nói.
“Tên hắn là gì, hắn được gọi là gì?” Anh đột nhiên quan tâm.
“Nó quan trọng sao? Tên anh ta là giả, giống như em. Sau mỗi chuyến đi nó lại thay đổi. Phải làm thế để đề phòng. Lúc là McLarnin. Lúc là Rideau. Em ngờ rằng mình còn chẳng biết tên thật của anh ta, trong suốt thời gian bọn em ở bên nhau. Em ngờ rằng anh ta cũng chẳng biết gì hơn. Giờ anh ta đã đi rồi. Đừng bắt em nhớ lại.”
Cô ta đang cố bảo vệ hắn, anh nghĩ. “Cô phải gọi hắn ta bằng một cái tên chứ.”
Cô ta nở nụ cười hồi tưởng chua chát. “Anh trai’. Để người xung quanh nghe thấy. Nó nằm trong vai diễn. Bọn em đi chu du với tư cách anh trai và em gái. Em cương quyết như thế. Mỗi người ở một cabin trên tàu.”
“Và hắn đồng ý.” Đó không phải là câu hỏi, đó là sự ngờ vực.
“Thoạt đầu anh ta phản đối. Cộng sự cũ của anh ta hình như… thôi, không quan trọng. Em chỉ ra rằng làm thế sẽ thuận lợi hơn cho mục đích của anh ta, và khi em chứng minh cho anh ta thấy, anh ta liền đồng ý. Công việc luôn được anh ta ưu tiên hàng đầu. Anh ta có nhân tình ở mọi thành phố bên sông, anh ta có thể bớt đi một người. Anh thấy đấy, em đóng một vai… hấp dẫn, lôi cuốn, cho anh ta. Vở của em là đánh rơi khăn tay trên boong tàu, hoặc va vào ai đó trên lối đi hẹp, hoặc thậm chí lạc mất phương hướng và phải hỏi đường người khác. Chả mất gì cho các quý ông trong việc làm quen với cô em gái chưa chồng của một người đàn ông. Trong khi nếu tưởng em là vợ anh ta, hoặc gì đó, Ịà họ nhụt chí ngay. Sau đó, khi được lệnh, em sẽ giới thiệu anh trai mình với bọn họ ngay khi có cơ hội. Và rồi ván bài sẽ sớm diễn ra.”
“Cô cũng chơi à?”
“Không bao giờ, chỉ đàn bà hư hỏng trơ tráo mới đánh bài với đàn ông.”
“Nhưng cô có mặt ở đó.”
“Em rót rượu cho họ. Trêu đùa một chút để giữ cho tâm trạng họ vui vẻ. Em đứng về phía họ chống lại anh trai khi có tranh cãi.”
“Cô làm nội gián.”
Hai vai cô ta hơi so lên, trong sự chấp nhận bình thản. “Thì đấy là mục đích em ở đó mà.”
Anh khoanh tay, với thái độ của một người cho qua không phán xét nghiêm khắc - hoặc đúng hơn là đành cho qua - người mà không một lời bào chữa, ỉ ôi, van xin nào có thể lung lạc. Những ngón tay anh gõ vào hai bên cánh tay.
“Còn Julia thì sao? Julia kia, người thật ấy?”
“Em kể ngay đây,” cô ta lẩm bẩm vẻ phục tùng, rồi hít sâu để giở lại một hồ sơ trong công việc của mình. “Bọn em thường đi mỗi tháng một lần, nhiều hơn là hỏng. Dừng một thời gian, rồi đi tiếp. Lần trước bọn em rời St. Louis vào ngày 18 tháng Năm, trên con tàu Thành phố New Orleans.”
“Giống như cô ấy.”
Cô ta gật đầu. “Đêm đầu tiên đã xảy ra chuyện. Cuối cùng anh ta đã gặp đối thủ. Em không biết sự thể ra sao. Không thể có chuyện thần may mắn luôn đứng về phía người chơi, vì anh ta có rất nhiều mưu mẹo để xử lí chuyện đó. Hẳn là cuối cùng anh ta đã chạm trán một kẻ cao tay hơn. Em không thể nhìn thấy những lá bài của người đó; y dường như chơi bằng trí nhớ, úp mặt các quân bài vào nhau. Và tất cả những ám hiệu miêu tả quân bài của em, mân mê vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, đều vô dụng, em không thể gửi chúng đi. Trò chơi diễn ra thâu đêm, đồng bọn của em thua nặng, cháy túi. Những người chơi thường là khách du lịch và xa lạ với nhau, nhưng tiền chơi là thật, cho nên thua là thua thật.”
“Gậy ông đập lưng ông,” anh nhận xét.
“Nhưng trước đấy nhiều giờ, người đó đã yêu cầu em để hai người họ lại với nhau. Bằng một cách thẳng thừng mà lịch sự khiến em không thể làm gì khác ngoài nghe theo, hoặc tự thừa nhận sự cáo buộc mà chắc chắn y đã phát hiện ra ở em. Y giả vờ mình không quen chơi trước mặt phụ nữ, muốn cởi áo vest, gi-lê, và y cởi phăng không thèm xin phép, nên em buộc phải đi. Đồng bọn của em cố ngăn cấm bằng mọi tín hiệu khẩn cấp, nhưng không còn lí do nào để em ở lại nữa, vậy là em đi. Bọn em đã sa vào cái bẫy của chính mình.
“Tha thẩn trên boong tàu cạnh lan can là một người phụ nữ cũng đi một mình, và dừng lại bắt chuyện với em ngay sau đó. Em không quen trò chuyện với những người phụ nữ khác, nó chẳng có ích lợi gì cho mục đích của mình, thế nên lúc đầu em chỉ nghe chiếu lệ.”
“Cô ta là một người khờ khạo. Trong vài phút cô ta đã bộc bạch hết bản thân, chẳng cần hỏi han. Cô ta là ai, đang đi đâu, đến đó làm gì. Cô ta quá cả tin, không có chút kinh nghiệm với thế giới bên ngoài. Nhất là thế giới của những con tàu trên sông, và những người ta gặp trên đó.”
“Ban đầu em cố giũ bỏ cô ta, nhưng không thành. Cô ta bám chặt lấy em, đi theo em khắp nơi. Cứ như cô ta đang khao khát một người bạn tâm tình, phải tìm một ai đó để trút nỗi lòng, cô ta chan chứa những mộng tưởng lãng mạn. Cô ta cho em biết tên, và, dừng lại trước một ô cửa sáng đèn, nhất định lấy ra khoe với em bức ảnh anh đã gửi, thậm chí đọc mấy đoạn trong vài lá thư gần nhất anh gửi, như thể chúng là lời sấm truyền vậy.”
“Và rồi, khi em bắt đầu cảm thấy quá sức chịu đựng và sắp bộc lộ những cảm nghĩ thật bằng một cơn bùng nổ ắt khiến cô ta giật thót mà câm nín, thì cô ta nhận ra - đối với cô ta - đã quá khuya và liền chạy về cabin của mình như đứa bé bị muộn giờ, thỉnh thoảng quay lại vẫy chào em, cô ta rất thích em.”
“Đêm đó anh ta và em đã cãi nhau gay gắt. Anh ta buộc tội em bỏ bê ‘công việc’. Dại dột thay, để bào chữa, em đã nói với anh ta về cô gái đó. Rằng cô ta đang trên đường đến gặp mối tình qua thư, để kết hôn với người đàn ông đáng giá 100.000 đô la, người…”
Anh thẳng người lên. “Làm sao cô ấy biết điều đó?” Anh đanh giọng. “Tôi chỉ nói với cô - người được cho là cô ấy - khi cô vừa đến và đứng trên bến tàu cạnh tôi.”
Cô ta cười khan. “Cô ta đã điều tra từ lâu trước khi rời St. Louis. Có thể em đã lừa anh ở tầm cỡ lớn hơn, nhưng chắc chắn cô ta cũng lừa anh như thế ở mức độ nhỏ hơn.”
Anh im lặng rất lâu, dường như tìm thấy một ưu điểm nào đó trong phát hiện mới mẻ về tính khôn ngoan của người phụ nữ này.
Ngay sau đấy, như đo chính xác khoảng thời gian dành cho anh nghiền ngẫm, về điều mà cô ta biết anh sẽ nghiền ngẫm, cô ta tự giác tiếp tục.
“Em thấy ánh mắt anh ta nhìn em khi đó. Anh ta dừng cuộc cãi vã, bỏ ra ngoài, chạy lên boong tàu một lúc. Em chỉ biết sao nói vậy với anh. Khi đó em không hề biết ý nghĩa của chuyện đang xảy ra. Giờ nhìn lại em mới hiểu. Anh phải tin em. Anh phải tin, Lou.”
Cô ta chắp hai tay, đưa đến trước mặt anh, vặn vẹo chúng đầy khẩn cầu.
“Tôi phải tin ư? Vì cớ gì?”
“Em đang nói sự thật. Từng lời đều là thật, cho dù trước đây và sau này có giả dối.”
Trước đây và sau này, anh thấy mình đang ngây ngô lặp lại lời cô ta, trong tâm trí.
“Em lại ra ngoài đi tìm, để hỏi anh ta có định gỡ lại khoản thua đêm đó không; anh ta có còn cần đến em, hay em có thể đóng cửa đi ngủ. Em thấy anh ta đứng bất động, chìm trong suy tính bên lan can. Trăng đã lặn và dòng sông trở nên tối sẫm. Bọn em vẫn đi ven bờ hạ lưu Missouri, em nghĩ tàu sẽ cập bến trước bình minh. Em không nhìn rõ anh ta cho đến khi đứng sát cạnh, anh ta chìm trong bóng tối lờ mờ.
“Anh ta thì thầm, ‘Gõ cửa buồng cô ta và mời cô ta lên boong đi dạo với cô’.”
“Em nói, ‘Nhưng muộn rồi, có khi cô ấy đã đi nghỉ. Giờ giấc của cô ấy không giống chúng ta’.”
“‘Làm như tôi bảo!’ Anh ta hung dữ ra lệnh. ‘Bằng không nắm đấm của tôi sẽ khiến cô phục tùng. Tìm cách đưa cô ta ra đây, cô sẽ biết cách. Bảo là cô đang cô đơn và muốn có người bầu bạn. Hoặc bảo cô ta mặt trời sắp mọc trên sông không nên bỏ lỡ, cô ta phải ra xem. Nếu cô ta ngây thơ như cô nói, thì cái cớ nào cũng có tác dụng’.”
“Và anh ta đẩy em một cái khiến em suýt ngã sấp xuống sàn boong tàu.”
“Cô đã đi?”
“Em đi. Em có thể làm gì được? Tại sao em phải chịu khổ vì một người xa lạ? Cô ta đã từng chịu đựng gì cho em chưa?”
Anh không trả lời câu hỏi đó.
“Em đến gõ cửa buồng, và khi cô ta lên tiếng, vẻ giật mình, hỏi ai, em dùng giọng rất ngọt ngào để trấn an, ‘Là Charlotte, người bạn mới của cô đây’.”
“Cô dùng cái tên đó trên tàu?”
“Cho chuyến đi đó thôi. Cô ta lập tức mở cửa, cô ta rất tin tưởng em mà. Cô ta vẫn chưa thay quần áo, nhưng bảo em rằng cô ta đang định làm thế. Giá như cô ta đã thay rồi.”
“Bây giờ nhớ lại thì cô nhân từ nhỉ,” anh cho cô ta hay. “Còn lúc đó thì không!”
Cô ta không nao núng. “Em ngỏ lời mời. Em than phiền về chứng đau đầu, và khước từ mọi cách điều trị cô ta đưa ra, nói rằng em thích xoa dịu bằng không khí trong lành hơn, và muốn cô ta đi dạo với em, vì giờ này đã khuya.”
“Em nhớ mình đã rất thấp thỏm, trước những ý định của anh ta… Ôi, em biết anh ta không có mưu đồ tốt đẹp, nhưng em không dám tin rằng anh ta định hại cô ta về mặt thể xác, cùng lắm là một kế hoạch tống tiền tinh vi, em nghĩ, được thực hiện sau này, khi cô ta đã lấy anh. Và ngay cả khi đã mời, em vẫn hi vọng cô ta từ chối, để em có cớ nói lại với anh ta. Nhưng có vẻ cô ta quý em quá mức. Chưa kịp mời lần thứ hai thì cô ta đã nhận lời, mặt cô ta sáng lên hoan hỉ vì em tìm đến. Cô ta vội vã quàng khăn san cho ấm, đóng cửa buồng, và đi với em.”
Sự quan tâm của anh tăng lên bất chấp ý muốn của mình. “Cô đang nói thật đấy chứ, Julia? Cô nói thật đấy chứ?” Anh không dám thở mạnh.
“Bonny,” cô ta lẩm bẩm phản đối.
“Cô đang nói thật chứ? Cô thực sự không biết chuyện gì sẽ xảy ra ư?”
“Thế em quỳ dưới chân anh như thế này để làm gì? Những giọt nước mắt hối hận của em để làm gì? Hãy nhìn kĩ. Em phải nói gì đây, em phải làm gì đây? Em có cần tuyên thệ không? Hay em kiếm một quyển Kinh Thánh, mở ra và áp vào ngực trong lúc nói?”
Anh chưa từng thấy cô ta khóc trước đây. Anh tự hỏi cô ta có bao giờ khóc không. Cô ta khóc như một người không hay khóc, cô ta kìm chế, bóp nghẹt nó, không biết nó là gì, chứ không phải người đã nhiều lần dùng đến nó cho mục đích của mình, vì vậy biết nó là một lợi thế và để nó mặc sức tuôn ra, thậm chí còn khuyến khích nó.
Anh gạt đi cái ý nghĩ do sự hoài nghi sinh ra. “Và sau đó? Sau đó thì sao?” Anh thúc giục.
“Chúng em đi hết chiều dài boong tàu ba lần, trong sự thân thiết hòa hợp, như những người phụ nữ khi ở bên nhau.” Cô ta dừng lại một lát.
“Sao vậy?”
“Em chợt nhớ ra một chi tiết. Giá mà em đừng nhớ. Cánh tay cô ta choàng qua eo em trong lúc đi dạo. Em thì không choàng eo cô ta. Cô ta lại nói về anh không ngớt. Lúc nào cũng nói về anh, chỉ có anh.”
Cô ta hít sâu, như lại cảm thấy sự căng thẳng của đêm đó, cuộc dạo chơi trên boong tàu vắng ngắt, tối om đó.
“Không có chuyện gì xảy ra cả. Anh ta không đến gần bọn em. Nhìn thấy cái bóng đen nào em cũng chuẩn bị kìm một tiếng thét, nhưng đều không phải anh ta. Cuối cùng em không còn lí do gì để giữ cô ta lại nữa. Cô ta hỏi thăm chứng đau đầu của em, và em nói nó đã hết. Và cô ta không thể nào biết em nhẹ nhõm đến mức nào khi trả lời.
Em đưa cô ta về cabin. Em nhớ cô ta còn quay sang hôn tay em chúc ngủ ngon, cô ta rất quý em. Cô ta nói, ‘Tôi rất vui vì chúng ta được gặp nhau, Charlotte. Tôi chua từng có một người bạn gái thực sự trong đời. Cô phải đến thăm tôi và.., cô ta ấp úng ngượng nghịu, ‘chồng mới cưới của tôi, nhớ đến thăm ngay sau khi chúng tôi ổn định cuộc sống đấy. Tôi rất muốn có những người bạn mới trong cuộc sống mới của mình’. Rồi cô ta mở cửa và đi vào. Bình yên vô sự. Em còn nghe thấy tiếng chốt cửa sau khi cô ta vào trong.”
“Và đó là lần cuối cùng em nhìn thấy cô ta.”
Cô ta dừng hẳn lại, như thể biết đã đến thời điểm, để câu chuyện đạt được hiệu quả cao nhất mà mình muốn.
“Cô chỉ tham gia đến đấy ư?” Anh chậm rãi hỏi.
“Em chỉ tham gia đến đấy. Em chỉ dự phần đến đấy, bất kể nó là gì.”
“Em vẫn nghĩ về nó từ bấy đến nay,” cô ta tiếp tục. “giờ em mới nhìn thấu. Nếu lúc ấy nhận ra, em sẽ không bao giờ bỏ mặc cô ta. Em những tưởng anh ta định tiếp cận cô ta trên boong tàu bằng cách nào đó. Dồn cô ta vào một tình trạng nguy hiểm, chỉ có thể thoát ra bằng cách đưa tiền, hoặc cướp đi một kỷ vật để cô ta phải chuộc lại, nếu muốn giữ được lòng tin của anh vào con người và thanh danh của cô ta. Thậm chí em còn nghĩ, trên đường quay về buồng, anh ta đã đổi ý, vứt bỏ dự định kia dù nó là gì. Em biết anh ta đã làm thế, sau khi tiến hành kế hoạch, mà mãi về sau anh ta mới cho em hay.”
Cô ta lắc đầu buồn bã. “Anh ta đã không làm vậy.”
“Hẳn anh ta đã lẻn vào ca bin trong lúc cô ta rời đi với em, và nằm phục bên trong. Anh ta muốn có cơ hội, vì thế mới bắt em đi dạo trên boong với cô ta.”
“Nhưng sau đó… hắn chưa từng kể chi tiết với cô chuyện gì đã xảy ra, trong cabin của cô ấy?”
Cô ta lắc đầu quả quyết. “Anh ta không bao giờ nói chi tiết với em. Em cũng không thể moi nó từ anh ta. Không phút giây nào anh ta tin cậy, không một phút giây nào yếu đuối với ai, đặc biệt là phụ nữ. Cách anh ta kể với em không phải để em tin; em biết thế, và anh ta cũng biết thế. Nó chỉ là câu khẩu hiệu, để che đậy một chuyện, để cho qua nó càng nhanh càng tốt. Song đó là cách duy nhất anh ta về nói nó, từ đầu chí cuối. Và em chẳng còn cách nào ngoài buộc phải bằng lòng.”
“Và đó là gì?”
“Đây là cách anh ta kể về nó với em, chính xác từng từ. Anh ta kín đáo gõ cửa, đánh thức em dậy, khoảng một tiếng trước khi trời sáng, khi cả con tàu còn đang ngủ. Anh ta ăn mặc chỉnh tề, nhưng mới mặc hay mặc từ tối qua thì em không biết. Anh ta có một vết xước trên trán, phía trên lông mày. Một vết xước rất nhỏ, dài không quá ba phân. Và chỉ có thế.”
“Anh ta vào buồng, đóng cửa cẩn thận, rồi nói với em rất khô khan và ngắn gọn, ‘Mặc đồ vào, tôi muốn cô làm việc này. Cô bạn đêm qua của cô vừa mới gặp tai nạn và ngã khỏi tàu trong đêm. Cô ta không bao giờ trở lên nữa’. Rồi anh ta ném tất và trang phục vào người em, từng cái một, thúc giục em nhanh lên. Đó là tất cả những gì anh ta nói với em, rồi lặp lại lần nữa, rằng cô ta đã gặp tai nạn và ngã khỏi tàu trong đêm.”
“Nhưng cô biết ư?”
“Làm sao em có thể không biết được? Em nói với anh ta là em biết. Anh ta còn đồng ý rằng có thể em biết, thừa nhận có thể em biết. Nhưng câu trả lời của anh ta là ‘Cô định làm gì về chuyện đó?’”
“Em bảo anh ta đó không phải thỏa thuận giữa em và anh ta. ‘Đánh bạc là một chuyện, vụ này là chuyện khác’.”
Anh ta cẩn thận tháo nhẫn ra trước, để nó không làm hỏng da em, và đấm em liên tiếp, đến khi đầu em choáng váng, rồi nói, ‘Sự đức độ của tôi bị sứt mẻ rồi đấy’. Anh ta đe dọa em. Anh ta nói nếu em tố cáo anh ta, anh ta sẽ tố cáo ngược lại. Để cả hai cùng vào tù. Em đã bị nhìn thấy đi cùng cô ta, còn anh ta thì không. Điều đó chẳng có lợi gì cho bọn em, còn làm hại cả hai. Cuối cùng anh ta còn dọa sẽ giết em nếu cần thiết, đó là cách bịt miệng nhanh nhất, nếu em tìm cách tiết lộ nó cho ai.
Rồi khi thấy màn dọa dẫm hết sức hiệu quả khiến em răm rắp nghe theo, anh ta mới nói lí lẽ. ‘giờ cô ta coi như xong rồi’, anh ta chỉ ra, ‘cô không thể làm gì để đưa cô ta trở lại, và có 100.000 đô la đợi sẵn khi cô xuống tàu ở New Orleans vào ngày mai’.”
“Anh ta mở cửa, và em sửa sang trang phục, theo anh ta ra ngoài.”
“Anh ta mang túi hành lý ít ỏi của em sang cabin anh ta và trộn chung với hành lý anh ta. Còn tư trang của cô gái đó thì chúng em chuyển từ cabin cô ta sang cabin của em, thay thế đồ đạc của em. Không quên cái lồng chim. Anh ta lấy trong túi ra những lá thư của anh, cùng tấm ảnh anh gửi cho cô ta, em cho chúng vào ví. Sau đó bọn em đợi thời cơ.”
“Trong lúc hỗn loạn khi tàu vào bến và hành khách xuống tàu chẳng ai nhớ đến cô ta. Tất cả hành khách đều bận rộn với những mối quan tâm riêng. Và với mỗi người khênh hành lý, nếu thấy cabin của cô ta trống không, nhất định cho rằng một người phu khuân vác khác đã phụ trách hành lý của cô ta rồi. Bọn em rời tàu riêng rẽ, anh ta đi đầu tiên, còn em gần như là cuối cùng. Và điều đó cũng không bị để ý.”
“Em trông thấy anh đứng đó, nhận ra anh qua tấm ảnh, rồi khi bến tàu đã vắng, em đi đến và dừng lại cạnh anh. Đó là tất cả câu chuyện, Lou.”
Cô ta ngừng lời, ngồi xuống trong tư thế quỳ, hai bàn tay vô lực buông xuống lòng, như không thể duy trì như cũ được nữa. Cô ta dường như cứ thế chờ đợi, trì trệ, xẹp lép, lời tuyên án, sự phán xét anh dành cho cô ta. Mọi thứ ở cô ta đều rũ xuống, đôi vai, mái tóc, cả đường cong của sống lưng; chỉ duy nhất có đôi mắt là ngước lên, dán vào gương mặt lạnh lẽo của anh vẻ cầu xin.
“Không hẳn,” anh nói. “Không hẳn. Còn ‘tên gì đó’ thì sao? Phần sau của kế hoạch là gì?”
“Anh ta bảo đợi một thời gian sẽ liên lạc với em. Và khi nhận được tin của anh ta, em liền…”
“Làm theo kế hoạch.”
Cô ta lắc đầu quầy quậy. “Không phải làm theo kế hoạch. Với anh thì có vẻ như thế. Em gặp anh ta đúng một lần, trong bí mật, khi em đi mua sắm mà không có anh - nó đã được sắp xếp trước - em đã bảo anh ta đừng trông mong vào em nữa, anh ta phải từ bỏ ý đồ, em không thể bắt mình thực hiện nữa.”
“Sao cô lại thay lòng đổi dạ?”
“Sao anh cứ phải nói như thế?”
“Tại sao tôi không nên nói?”
“Có nói cũng vô ích. Nó không đáng tin.”
“Tôi mới là người quyết định.”
“Thôi được, nếu anh nhất quyết như thế,” cô ta nói gần như ngang ngạnh. “Em bảo với anh ta là mình không thể làm như những gì đã định. Em bảo rằng em đã yêu chồng mình.”
Tựa như có dải cầu vồng chợt hiện lên lung linh đủ sắc màu rực rỡ trên nền trời xám ảm đạm. Anh tự nhủ đó chỉ là ảo ảnh, giống như chính bản gốc, cầu vồng thật ra chỉ là ảo ảnh trong tự nhiên. Nhưng nó không mờ đi, không run rẩy; nó nghiêng nghiêng ở đó, dấu hiệu của hi vọng, báo trước ánh nắng sắp về.
Cô ta đã nói tiếp, nhưng sự choáng váng ngọt ngào từ câu nói trước, vẫn nhấn chìm anh trong miền ấm áp, khiến anh bỏ lỡ một phần câu chuyện.
“… cười phá lên và bảo rằng em biết về tình yêu chẳng hơn gì số người sống trên mặt trăng. Rồi anh ta hằn học, bảo em nói dối và đang rắp tâm chiếm số tiền đó.”
Em đã yêu! Nó cứ văng vẳng trong đầu anh, át đi giọng cô ta. Nó như một nghịch âm chen vào giai điệu truyền thống và xóa nhòa hết thảy.
“Em cố mặc cả với anh ta. Anh ta có thể lấy tất cả số tiền em có khả năng đoạt được, gần bằng con số anh ta mong đợi lúc đầu, chỉ cần anh ta rời khỏi New Orleans, và để em yên. Đúng, em đã đề xuất lấy trộm tiền của chồng mình, đánh liều cái phao duy nhất em đang bám vào, chỉ cần anh ta để em yên, cho em được sống như hiện tại, được hạnh phúc lần đầu tiên trong đời.”
Hạnh phúc lần đầu tiên trong đời. Khúc hoan ca ngân lên trong đầu anh. Cô ấy thực sự hạnh phúc với mình.
“Chỉ cần anh ta chấp nhận khoản hối lộ, em đã tính sẵn vài cái cớ với anh, rằng em bị giật ví trong đám đông, đánh rơi tiền trên đường về sau khi rút từ ngân hàng, rằng ‘chị gái’ em bất ngờ đổ bệnh và gia cảnh túng bấn, nên em đã gửi tiền đến St. Louis cho chị ấy. Ôi, bất cứ lí do gì cũng được, dù nó mỏng manh, ti tiện, dù sao thì nó cũng không chưa tai tiếng bằng thực tế. Phải, em sẵn lòng mạo hiểm khiến anh bực bội, thất vọng, thậm chí tệ hơn, là nghi ngờ, miễn là em được giữ anh cho riêng mình, được tiếp tục ở bên anh.”
Được tiếp tục ở bên anh. Đến giờ anh vẫn có thể nhớ hơi ấm trong những nụ hôn, vẻ rạng ngời trong những nụ cười của cô. Diễn viên nào có thể sắm một vai như thế, cả sáng, trưa, tối? Ngay đến diễn viên chuyên nghiệp cũng chỉ diễn một, hai tiếng mỗi tối, rồi nghỉ ngơi trong thời gian còn lại. Đời thường mới là ngay thật. Anh nhớ ánh mắt cô trước khi chia tay vào ngày cuối cùng ấy; có chút lưu luyến, sầu muộn miễn cưỡng. (Nhưng phải chăng nó vẫn có, hay giờ anh mới đưa vào?)
“Anh ta không bằng lòng với con số đó. Anh ta muốn toàn bộ, không phải một phần. Và em cho rằng thực sự không có giải pháp nào. Dù em có đưa bao nhiêu, anh ta cũng vẫn nghĩ em giữ lại phần lớn hơn. Anh ta không tin một ai - chính anh ta nói thế trong một cuộc cãi vã - kể cả bản thân mình.”
“Thấy đúng là em yêu anh, anh ta phát hiện ra giờ đây đã nắm thóp được em. Và không lâu sau, anh ta ra tay đánh vào điểm đó. Anh ta dọa sẽ đích thân tiết lộ cho anh thân phận giả mạo của em, qua một bức thư nặc danh, nếu em từ chối thực hiện thỏa thuận. Anh ta không có tiền thì em cũng không có được điều mình muốn. Bọn em sẽ cùng là những kẻ chạy trốn như nhau, trở về vạch xuất phát. ‘Và nếu cô chặn thư của tôi’, anh ta cảnh báo, ‘cũng không ích gì đâu. Tôi sẽ đến gặp và tố cáo thẳng với gã đó. Cho gã biết cô không những là kẻ mạo danh, mà còn là ả nhân tình lâu năm bị tôi đá đi. Để xem gã còn giữ cô lại bao lâu nữa’.” Cô ta vội vã nói thêm vào, “Đó không phải là sự thật.”
“Và khi về nhà ngày hôm đó,” cô ta nói tiếp. “Em biết dù em có xoay xở thế nào cũng vô dụng. Em biết chắc mình sẽ mất anh, không cách này thì cách khác.”
“Em thức trắng cả đêm. Bức thư được gửi đến. Em biết nó sẽ đến. Anh ta nói là làm, trong tất cả những việc như thế; và chỉ những việc như thế. Em nhận nó. Em đã chờ trước cửa khi xe thư tới. Em mở ra đọc. Em vẫn nhớ nội dung. ‘Người phụ nữ sống cùng nhà với ông không phải là người ông định lấy, mà là một người khác, và cũng là nhân tình của người đàn ông khác. Tôi là người đàn ông đó, vì thế tôi biết mình đang nói gì. Hãy quản chặt tiền bạc của mình, ông Durand. Nếu ông không tin, hãy nhìn kĩ mặt cô ta khi ông đột ngột nói, Bonny, lại đây v?