Chương 45
Anh điên cuồng chạy tới chạy lui giữa tủ áo mở toang và chiếc rương đã bật nắp, trống không mỗi lần kết thúc một chuyến đi, chìm nghỉm dưới đám quần áo của cô mỗi khi bắt đầu chuyến đi mới. Anh vứt đồ một cách bừa phứa vào, nên chẳng mấy chốc sức chứa cơ bản của nó đã cạn sạch, còn sức chứa thực sự thì chất ngất tràn cả ra ngoài. Lần này chẳng hơi sức đâu mà đóng gói tỉ mỉ. Phải nhanh lên còn cao chạy xa bay.
Anh nghe tiếng cô ngoài cửa, và trước khi cô có thời gian vào hẳn trong nhà, anh đã gọi vọng xuống, với vẻ giục giã cuống quýt, “Bonny!” rồi lại tiếp, “Bonny! Nhanh lên đây! Mau lên! Anh có chuyện muốn nói!”
Sao cô lâu vậy. Có lẽ còn đủng đỉnh cởi mũ hay sắp xếp những món đồ trước khi làm bất cứ việc gì khác, kể cả trong thời khắc khủng hoảng này.
Nổi xung vì vội vã, anh lao khỏi phòng, chạy xuống gặp cô. Và đến lưng chừng cầu thang anh dừng sững lại, như thể chân bị cái hãm phanh siết chặt, đứng đờ ra, nhưng run rẩy, và lặng người đi.
Cái người đứng quay lưng lại cánh cửa vừa mới đóng, cũng lặng đi, đó là Downs.
Không ai cử động. Quá trình từ ngỡ ngàng đến hiểu ra rồi nắm bắt đã đi qua từ lâu. Nhưng hai người họ vẫn nhìn nhau chằm chằm. Từ cầu thang xuống cửa. Từ cửa lên cầu thang. Rồi một người nở nụ cười nhàn nhạt kiểu “À, ra thế.” Một người mặt xám ngoét như xác chết.
Cuối cùng một người thở dài. Rồi người kia cũng thở dài đáp lại. Hai tiếng thở dài trong im lặng căng thẳng. Hai tiếng thở dài khác nhau. Một tiếng thở dài tuyệt vọng. Một tiếng thở dài kết thúc.
“Anh vừa gọi tên cô ta,” Downs chậm rãi nói. “Anh đã gọi tên cô ta. Vì nghĩ đó là cô ta. Vậy là cô ta ở đây với anh.”
Durand đã quay nửa người, hai tay nắm chặt lan can và hơi vươn người qua, như dựa vào nó để đứng vững. Anh lắc đầu. Ban đầu chậm chạp. Rồi nhanh hơn sau mỗi lần nhắc lại; cho đến khi dùng nó đánh vào không gian ngoan cố. “Không,” anh nói. “Không! Không! Không!”
“Anh Durand. Thính giác tôi rất tốt. Tôi nghe rõ mà.”
Như con đà điều hoảng sợ hèn nhát, cố rúc đầu trong cát tự dối mình. Như thể cứ nói Không mãi thì sẽ xua được nguy hiểm. Anh dùng chữ đó làm lá bùa.
“Không! Không! Không!”
“Anh Durand, ít nhất hãy ra dáng đàn ông. Anh đã gọi tên cô ta và hét cái tên ấy xuống dưới này.”
“Không! Không!” Anh bước loạng choạng xuống một bậc thang. Rồi một bậc nữa. Nhưng cơ thể anh tưởng chừng trượt xuống theo lan can chứ không theo bước chân, ken két khó nhọc. Như một người say, đúng là như vậy. Say vì hốt hoảng. “Là người khác. Một phụ nữ đến dọn dẹp nhà cửa. Tên cô ta nghe giống thế…,” anh không biết mình đang nói gì.
“Tốt thôi,” Downs thong thả nói. “Tôi chấp nhận đó là người phụ nữ đến dọn nhà cho anh, người phụ nữ có cái tên giống hệt. Tôi không khó tính đâu.”
Họ đột nhiên cảnh giác, canh chừng nhau; hai cặp mắt đảo hết bên này sang bên kia trong sự tính toán không lời. Hành động tiếp theo cũng đồng nhất.
Durand rời khỏi cầu thang, Downs rời khỏi lưng cửa. Họ cùng lao theo một đường chéo đến trước một chiếc tủ lắp gương, gắn nhiều gạc treo mũ sát tường, mặt ghế ngồi đồng thời là nắp một hòm chứa đồ. Durand cố giữ chặt nó xuống, Downs cố bẩy nó lên. Cánh tay Downs thò vào nhanh như chớp, lôi ra hai dải vải đỏ ánh xanh treo một chiếc mũ rơm làm vườn. Một mẩu viền mũ đã nhô ra, nhưng bị kẹt lại bởi cú sập nắp hòm; một đốm sáng vàng rực, nhỏ bằng móng tay, trong khu vực rộng lớn của tầng dưới ngôi nhà.
(“Nhưng sao em thích nó thế?” Có lần anh đã hỏi cô.
“Em không biết. Nó là màu sắc của em, và bất cứ ai biết em sẽ biết màu sắc của em. Em ở đâu phải có nó ở đó.”)
Downs thả nó rơi trở lại hòm. “Trang phục cho người phụ nữ đến giúp việc cho anh,” anh ta nhận xét. Và rồi, chiếu ánh nhìn phẫn nộ và hết sạch sự tôn trọng vào Durand, Downs lẩm bẩm câu gì đó bằng giọng đã nuốt lại nghe như, “Chúa cứu giúp anh, đi yêu một…!”
“Downs, nghe này, tôi muốn nói chuyện với anh…!” Từ ngữ xô đẩy nhau để tuôn ra. Anh hổn hển đến mức không thể phát âm rõ ràng. Anh nắm lấy hai ve áo, kéo anh ta lại gần trong sự năn nỉ cưỡng bách. “Vào trong này, vào phòng bên cạnh, để tôi nói chuyện với anh…!”
“Anh và tôi không còn gì để nói cả. Tất cả những gì tôi cần nói dành cho…”
Durand khăng khăng lùi về đằng sau, kéo xềnh xệch anh ta theo, qua ngưỡng cửa nơi anh muốn anh ta vào. Rồi anh buông tay ra, Downs đứng nguyên tại chỗ.
“Downs, nghe này… đợi một phút, ở đây có rượu Brandy, tôi rót cho anh một ly.”
“Tôi để dành lên tàu mới uống.”
“Downs, nghe này… cô ấy không ở đây, anh đang nhầm lẫn nghiêm trọng…” Rồi vội vàng xua tay ngăn lại sự phản đối chực sẵn của anh ta, “… nhưng đó không phải việc tôi muốn nói. Đơn giản là thế này. Tôi… tôi đã đổi ý. Tôi muốn thôi vụ đó. Tôi muốn ngừng quá trình điều tra.”
Downs lặp lại với giọng điệu y hệt, “Anh muốn thôi vụ đó. Anh muốn dừng điều tra.”
“Tôi có quyền ấy, tôi được lựa chọn. Chính tôi đã đâm đơn kiện.”
“Đó chỉ là một phần sự thật. Anh đồng đâm đơn với cô Bertha Russell. Nhưng cứ cho anh là người đâm đơn duy nhất đi. Vậy thì sao?” Lông mày anh ta nhướng lên. “Sao nào?”
“Nhưng nếu tôi muốn rút đơn, nếu tôi hủy nó…?”
“Anh không có quyền kiểm soát tôi,” Downs nói chắc nịch. Anh ta tựa một bên hông lên tay ghế bên cạnh, thả lỏng như chờ đợi. “Anh có thể hủy đơn. Tốt thôi. Anh có thể ngừng trả bất cứ khoản phí tăng thêm nào cho tôi. Và thực ra khoản tiền anh trả trước cho tôi đã hết sạch từ mấy tháng trước. Nhưng anh không thể bắt tôi bỏ vụ này. Như thế đã dễ hiểu với anh chưa? Người xưa đã nói, đây là một đất nước tự do. Và tôi là một người làm nghề tự do. Nếu tôi tình cờ muốn tiếp tục công việc cho đến khi đem lại một kết cục thỏa đáng - và tình cờ đúng là như thế - thì anh không thể làm gì được. Tôi không còn làm việc cho anh nữa, tôi làm vì lương tâm mình.”
Hoảng sợ, Durand bắt đầu run lẩy bẩy. “Nhưng đó là khủng bố…,” anh run giọng.
“Tôi sẽ gọi đó là sự tận tâm, nhưng không phải cho bản thân,” Downs nói với nụ cười lãnh đạm.
“Nhưng anh không phải là cảnh sát… anh không có quyền…”
“Tôi có đầy đủ quyền như ban đầu, khi tôi nhận vụ việc nhân danh anh. Bây giờ chỉ khác ở chỗ tôi chuyển những kết quả tìm kiếm của mình trực tiếp cho họ, khi nào xong việc, thay vì qua anh.”
Durand, đôi bàn chân tê dại, lảo đảo đi vòng sang bên kia chiếc bàn đồ sộ, vịn hai tay men theo mép bàn, như sắp gục xuống bất cứ lúc nào.
“Chờ đã… hãy nghe tôi nói…,” anh hổn hển, lục lọi trong túi áo gi-lê với vẻ lo lắng cuống cuồng, hết túi này sang túi khác, không tìm được ngay thứ cần tìm. Cuối cùng anh rút ra một chiếc chìa khóa, tra vào bàn, kéo ra một ngăn kéo. Lát sau xuất hiện một chiếc hộp nặng nề đóng đai sắt trên mặt bàn, nắp đang mở. Anh đào bới trong đó, rồi trở về chỗ Downs với hai bàn tay đưa ra, đầy ắp tiền.
“Ở đây có 20.000 đô la. Downs, hãy xòe tay ra. Downs, cầm nó một phút; hãy cầm nó chỉ một phút thôi.”
Hai tay Downs đã thu về trong túi quần; không có chỗ nào để đặt số tiền ấy cả.
Downs lắc dầu với sự ngoan cố uể oải. “Một phút cũng không, một giờ cũng không.” Anh ta hất đầu vẻ ra lệnh. “Cất nó về chỗ cũ đi, Durand.”
“Chỉ giữ hộ tôi thôi,” Durand cố chấp một cách trẻ con. “Chỉ cầm nó một chốc, tôi chỉ yêu cầu có vậy…”
Downs điềm tĩnh nhìn anh. “Anh chọn nhầm người rồi, Durand. Đó là sự đen đủi của anh. Chọn nhầm người bằng con số hai mươi. Hoặc có lẽ cả một trăm. Ban đầu tôi nhận vụ này một cách chuyên nghiệp, để kiếm tiền. Còn giờ là do ý muốn của bản thân. Tôi không những sẽ không nhận thêm tiền để làm tiếp, mà có bao nhiêu tiền cũng không thể khiến tôi bỏ cuộc. Và đừng hỏi tại sao, vì tôi không trả lời anh được. Tôi là một gã tò mò, thế thôi. Anh đã phạm sai lầm, Durand, khi đến gặp tôi ở St. Louis. Lẽ ra anh nên tìm người khác. Có lẽ trong cả đất nước này, anh lại chọn đúng tay thám tử tư mà một khi bắt đầu việc gì thì không thể từ bỏ, cho dù gã có muốn. Nhiều lúc tôi tự hỏi mình là cái thể loại gì vậy, ước gì tôi biết. Có lẽ tôi là kẻ cuồng tín. Tôi muốn người phụ nữ đó, không phải vì anh nữa, mà vì thỏa ý nguyện của tôi.” Đến đây anh ta bỏ hai tay ra, nhưng chỉ để khoanh hai tay trước ngực và dựa người sâu hơn vào chiếc ghế.
“Tôi sẽ ở đây cho đến khi cô ta xuất hiện. Và tôi sẽ đưa cô ta về cùng tôi.”
Durand quay về bên hộp tiền, hai bàn tay đè lên số tiền đã được cất lại chỗ cũ, ấn xuống nó một cách vô hiệu gượng ép.
Downs hẳn đã trông thấy anh liếc ra cửa vẻ tính toán. Anh ta đọc ngay ra ý đồ của anh.
“Và nếu anh rời khỏi đây, tìm cách gặp cô ta bên ngoài và cảnh báo cho cô ta, tôi sẽ đi cùng anh.”
“Anh không thể cấm tôi rời khỏi nhà,” Durand tuyệt vọng nói.
“Tôi không nói thế. Và anh không thể ngăn tôi đi bên cạnh anh. Hoặc sau anh một, hai bước. Đường phố dành cho tất cả mọi người.”
Durand ép mu bàn tay lên trán, giữ đó một lúc, như thể phía trên đầu có thứ ánh sáng quá chói chang. “Downs, tôi có thể có thêm 30.000 đô la nữa ở New Orleans. Trong vòng 24 giờ đồng hồ. Hãy đi cùng tôi tới đó, cứ việc canh chừng tôi trên đường. Tôi hứa với anh. 50.000 đô la, chỉ cần để yên cho chúng tôi. Chỉ cần quên rằng anh từng nghe…”
“Đừng phí sức nữa, tôi đã nói rõ rồi,” Downs khinh miệt.
Durand thu nắm đấm run run chĩa vào anh ta, nhưng không phải đe dọa mà cầu xin. “Tại sao anh cứ phải bôi nhọ thanh danh, hủy hoại cuộc đời cô ấy? Được lợi gì…?”
Miệng Downs nhếch lên như đang cười, nhưng không âm thanh nào phát ra. “Bôi nhọ thanh danh của ả đàn bà dâm đãng đó? Hủy hoại cuộc đời ả điếm giết người đó?”
Gương mặt Durand tái nhợt đi, những vệt tím vằn lên ngang miệng và mắt dưới tác động của câu nói, tuy nhiên anh lờ nó đi. “Cô ấy không làm gì cả. Tất cả là do suy diễn. Cô ấy chỉ vô tình có mặt trên cùng một con tàu thôi. Mà ở đó còn bao nhiêu người khác. Anh không thể khẳng định chắc chắn chuyện gì đã xảy ra với Julia Russell. Không ai có thể khẳng định, không ai biết. Cô ta chỉ mất tích. Có thể cô ta đã gặp tai nạn. Mọi người đều có thể gặp tai nạn. Hoặc có thể giờ này cô ta vẫn còn sống. Cô ta có thể đã bỏ trốn với một người mà cô ta gặp gỡ trên tàu. Tội của Bonny chỉ là thuyết phục tôi tin cô ấy là một người khác, lúc ban đầu. Và nếu như tôi tha thứ cho cô ấy, như tôi từ lâu đã tha thứ…”
Downs đột ngột rời khỏi vị trí dựa dẫm ở tay ghế. Anh ta đứng bật dậy, đối diện anh, đôi mắt sáng long lanh.
“Có một việc xem ra anh chưa biết, anh Durand. Và tôi nghĩ trước sau gì anh cũng biết thôi. Anh bỏ đi sớm quá. Nó không còn là một vụ mất tích nữa. Và tôi có thể khẳng định chắc chắn chuyện gì đã xảy ra với Julia Russell! Nếu lần trước tôi không thể khẳng định với anh thì bây giờ tôi có thể.”
Anh ta hơi nghiêng người về phía trước trong cơn xúc động và nhiệt thành; sự nhiệt thành đã tự nói lên cách đây mấy phút.
“Một xác người đã theo những xoáy nước dạt vào bờ biển thành phố Cape Giradeau vào ngày mùng 10 tháng này. Anh có thể tái mặt, anh Durand; đó cũng là điều hợp lí. Một xác người đã bị giết, rồi bị ném xuống nước. Không có nước trong phổi. Tôi đã đưa Bertha Russell đến để nhận dạng cái xác. Và trong tình trạng đã bị phân hủy nặng, cô ấy vẫn nhận ra. Đó là Julia Russell, em gái cô ấy. Chắc như đinh đóng cột, cho dù khuôn mặt không còn gì nữa. Bởi hai nốt ruồi giống hệt nhau nằm trên cao mé trong đùi trái. Thực tế là không có người nào khác từng nhìn thấy nó từ thời thơ ấu. Thêm một chi tiết khác thường là những chiếc răng trong cùng ở cả hai hàm, tức là bốn chiếc răng, là răng vàng. Và chi tiết cuối cùng, bên sườn cô ấy có một hàng những vết sẹo đều nhau kì lạ, do răng một cây cào làm vườn gây ra, cũng từ thuở bé. Cây cào đã han gỉ và những vết đâm phải khử độc bằng sắt nung.”
Anh ta dừng lại lấy hơi, xuất hiện khoảng lặng trong chốc lát.
Durand vẫn đứng đó, cúi xuống trước mặt Downs. Có lẽ nhìn xuống sàn nhà trong sự đầu hàng tuyệt đối, có lẽ nhìn vào ngăn kéo để két sắt đã bị kéo ra. Anh đang thở nặng nhọc; ngực phồng lên xẹp xuống thấy rõ với mỗi lần hít vào thở ra.
“Cảnh sát có biết việc này không?” Cuối cùng anh hỏi, không ngẩng đầu lên.
“Vẫn chưa, nhưng họ sẽ biết khi tôi đưa cô ta về đó.”
“Anh không bao giờ đưa được cô ấy về đó, Downs. Cô ấy sẽ không rời ngôi nhà này. Và anh cũng vậy.”
Đến đây đầu anh ngẩng lên. Cùng với đó là khẩu súng lục mà bàn tay anh đã đặt lên từ rất lâu trước đó.
Sự bàng hoàng quất vào gương mặt Downs, trong khoảnh khắc nó hiện lên nỗi sợ hãi, suy sụp, hoảng loạn; tất cả những phản ứng thông thường và chỉ con người mới có. Nhưng rồi anh ta kiềm chế chúng, và lấy lại tự chủ.
Anh ta nói để cứu mạng mình, nhưng giọng anh ta bình tĩnh và thuyết phục, sau bước thoái lui yếu ớt ban đầu, anh ta đã trụ vững. Anh ta cũng không so vai rụt cổ phòng vệ, mà vươn thẳng người. Anh ta không cố gắng che giấu nỗi sợ hãi, mà làm chủ nó, sự dũng cảm ấy lớn hơn đối thủ của anh ta.
“Đừng làm điều gì như thế. Hãy sáng suốt, anh bạn. Anh vẫn chưa dính líu. Việc anh giao du với người phụ nữ này không thể bị trừng phạt. Tội ác xảy ra trước khi anh gặp cô ta. Anh không tham gia vào đó. Anh đã dại dột nhưng không phạm tội… Đừng, Durand… Hãy dừng lại suy nghĩ trước khi quá muộn. Vì bản thân anh, khi vẫn còn thời gian, hãy bỏ nó xuống. Hãy cất nó về chỗ cũ.”
Durand, lần đầu tiên trong cả cuộc đối thoại, tỏ ra thật lòng, nhưng không phải với viên thám tử, mà là người khác. Nhưng là người nào, chẳng ai biết được. Bản thân anh cũng không biết. “Đã quá muộn rồi. Đã quá muộn kể từ lần đầu tôi gặp cô ấy. Đã quá muộn kể từ ngày tôi sinh ra. Đã quá muộn kể từ khi Chúa tạo ra thế giới này!”
Anh cụp mắt xuống, tránh nhìn mặt Downs. Anh nhìn vào ngón tay mình, đang vòng qua cò súng. Quan sát nó với vẻ tò mò khách quan, như thể nó không phải là một phần của anh. Quan sát như muốn xem nó sẽ làm gì.
“Bonny,” anh nức nở, như van xin cô hãy buông tha anh.
Tiếng nổ làm anh choáng váng, khói tạo thành một bức màn nhân từ ngắn ngủi giữa hai người. Nhưng nó mỏng dần và tan biến trước khi giúp ích được gì.
Rồi anh ngẩng lên đối diện gương mặt mà anh không muốn đối diện.
Lạ thay, Downs vẫn đứng thẳng.
Trên mặt anh ta có một vẻ quở trách không nói thành lời, buốt nhói đến độ mà, nếu phải nhìn nó lần nữa ắt sẽ khiến anh mất hết lý trí, khi đó Durand cảm thấy như vậy.
Một tiếng thì thầm lơ lửng quanh hai người trong sự tĩnh lặng vừa ập xuống căn phòng, như một tiếng thở dài hối hận. Người nào đó đã thốt lên, “Người anh em,” và sau này Durand có cảm giác kì lạ rằng đó chính là mình.
Đôi chân Downs chợt khuỵu xuống, và thân hình anh ta đổ rầm. Vì trì hoãn mà nó rơi mạnh hơn nếu như anh ta ngã ngay lập tức. Và nằm chết ở đó. Chết do sai lầm, với đôi mắt mở to nhưng mờ đục, với đôi môi bềnh bệch và hơi hé mở.
Những việc làm sau đó của Durand được thực hiện chậm chạp, như thể anh chứ không phải là Downs đang ở cõi vĩnh hằng; và cho dù anh thấy bản thân đang thực hiện chúng, anh lại không ý thức được. Như thể chúng là hành động của đôi tay và cơ thể, không phải của trí não.
Anh nhớ mình đã ngồi trên ghế một lúc, ở mép ngoài của nó, như một người bồn chồn, chuẩn bị đứng lên bất cứ lúc nào, tuy nhiên không làm nổi. Anh chỉ nhận ra mình đang ngồi khi cuối cùng anh cũng đứng lên và rời chiếc ghế. Suốt thời gian đó, tay anh vẫn cầm khẩu súng, gõ họng súng vào đầu gối.
Anh đi tới bàn và trả nó về chỗ anh đã lấy. Rồi anh thấy hộp tiền vẫn ở trên bàn, nắp mở và mấy tờ tiền vương vãi xung quanh. Anh cất những tờ tiền này vào hộp, đóng nắp rồi khóa lại, cất hộp đi. Rồi anh khóa ngăn kéo và cho chìa khóa vào túi.
Phải, anh đờ đẫn nghĩ. Mình có thể sửa chữa mọi thứ trừ một thứ. Có một thứ mình không thể trả về như cũ. Người anh lắc lư, run rẩy tựa vào góc bàn một lúc, như thể ý nghĩ ấy là luồng gió lạnh táp vào và đe dọa hất ngã anh.
Tình trạng ấy tưởng chừng không có kết thúc, như thể anh sẽ ở đây mãi mãi với người chết này. Thứ này từng là một con người; ăn mặc như một con người, nhưng không còn là con người nữa. Anh không cảm thấy thôi thúc muốn thoát khỏi căn phòng này; bản năng mách bảo anh ở đây sẽ tốt hơn, sau những bức tường che chắn, hơn bất cứ nơi nào khác. Nhưng anh không muốn phải nhìn cái thứ trên sàn thêm nữa. Anh muốn mắt mình không phải chốc chốc lại liếc nhìn nó một lần.
Downs nằm trên tấm thảm hình chữ nhật, và nằm ngang nó, một góc thảm phía trên dôi một đoạn dài qua vai, góc thảm ở dưới dôi một đoạn dài qua bàn chân. Có một sự xâm phạm nghiêm trọng tính đối xứng, một sự khó chịu liên tục kích vào dây thần kinh mỗi lần ánh mắt anh chạm phải hình ảnh nổi bật ấy trên sàn nhà..
Cuối cùng anh bước đến và buông mình xuống gương mặt người chết, và, gập mép thảm phủ lên nó, như một tấm vải liệm bằng len. Rồi cảm thấy dễ chịu hoặc ít ra cũng khá hơn, anh vội vã lần xuống chân cái xác - vẫn ngồi như thế và di chuyển bằng mũi chân - và lật góc thảm kia, phủ lên hai bàn chân và hai cẳng dưới. Bây giờ tất cả những gì lộ ra là một thân người cụt.
Trở nên hăng hái, anh lật cái xác cùng phần thảm bên đó lên. Rồi lật thêm vòng nữa. Giờ nó đã biến mất hoàn toàn, nằm gọn trong cái kén bằng mặt trái xù xì của tấm thảm. Nhưng anh vẫn lật thêm lần nữa, và tấm thảm biến thành một cái ống dài, rỗng. Không khác gì một súc thảm cuộn tròn. Ở nó không có gì để gây ngạc nhiên, hay chứng thực, hay buộc tội.
Nhưng nó chắn đường. Nó khóa lối ra vào cửa.
Anh bò bằng cả tứ chi và bắt đầu lăn nó qua phòng, về phía chân tường đối diện. Nó lăn giật cục và hơi tròng trành, theo trọng lượng của nó hơn là thao tác của anh. Anh phải dừng lại và đứng lên, đi ra đằng trước nó để đẩy một chiếc ghế khỏi đường đi.
Khi quay lại anh đã mệt nhoài, chẳng thèm ngồi xuống dùng tay nữa. Anh đứng nguyên và đặt chân lên nó, cứ thế thúc nó về phía trước, cuối cùng anh tống được nó vào sát chân tường, nhìn khá là khuất nẻo.
Một chiếc cúc cổ áo bằng ngọc trai đã văng ra dọc đường và nằm trên sàn đằng sau nó. Anh nhặt lên, đem về ném vào một trong những lỗ mở; nhưng không nhớ trong hai cái lỗ, cái nào là đầu, cái nào là chân nữa.
Kiệt sức, anh lảo đảo quay về, tìm đến bức tường gần khung cửa mở nhất, bức tường xa nó nhất, và buông phịch người vào đó, để nó nâng đỡ anh ở vai và mông, và cứ ì ra như vậy.
Anh vẫn ở trong tình trạng đó khi cô bước vào nhà.
Sự trở về của cô thật lặng lẽ. Anh không thể chào đón nó được nữa. Năng lượng hồi hộp của anh đã cạn. Anh quay đầu lơ đãng trước tiếng động bên ngoài, tận hành lang vọng vào. Lát sau cô xuất hiện bên cạnh anh, đứng nhìn vào phòng, loay hoay tháo găng tay.
Mùi hoa violet hăng hắc như phả vào anh; nhưng có lẽ do hình ảnh cô gợi nó lên từ quá khứ, hơn là anh thực sự ngửi thấy.
Cô quay đầu sang và thấy anh ở đó, dựa sát tường, hai bàn tay xòe rộng hoang mang.
Cái miệng chúm chím của cô bật ra tiếng cười.
“Lou! Anh đang làm gì thế kia? Dán vào…”
Anh không nói năng gì.
Ánh mắt cô quét khắp phòng, tìm câu trả lời.
Anh thấy ánh mắt cô dừng lại ở một dải bụi phủ lên sàn. Có thể coi đó là hồn ma của tấm thảm.
“Chuyện gì xảy ra với tấm thảm vậy?”
“Có người trong đó. Có một xác đàn ông trong đó.” Dù chính miệng nói ra, anh vẫn thấy thật lạ lẫm. Có người trong đó. Nghe như có một mẫu vật sống đang cư ngụ trong đó vậy. Nhưng còn cách nói nào khác đâu?
Anh quay đầu chỉ vị trí của nó, cô quay theo, nhờ thế mà xác định được nó. Một cái bóng tròn âm thầm nằm dọc chân tường; rất dễ bị bỏ qua, những chân ghế đã che khuất nó.
“Đừng qua…,” anh vừa mở miệng thì cô đã rảo chân đi rồi. Anh không nói hết lời ngăn cản, vì thiếu hơi sức hơn là vì cô đã không nghe lời.
Anh thấy cô cúi xuống cái miệng hở hình oval giống một ống khói lò, những lớp váy lòa xòa quanh người. Cô ghé sát mặt ngó. Rồi cô thò tay vào, mò mẫm xem có đúng là có thứ gì trong đó không. Tiếp đến cô túm những mép thảm, như định giở nó ra một phần, hoặc ít nhất là mở banh lỗ hở.
“Đừng…,” anh nói yếu ớt. “Đừng mở nó ra nữa.”
Cô thẳng người lên và trở về với anh. Một vẻ cảnh giác hiện trên mặt, một sự khôn ngoan thận trọng, nhưng chỉ có thế; không kinh hoàng và sợ hãi, không tái nhợt vì sốc. Dường như cô còn mạnh mẽ hơn, như thể đây không phải một biến cố tày trời mà là một phép thử dũng khí của cô.
“Ai làm thế? Anh à?” Cô thì thào hỏi.
“Đó là Downs,” anh nói.
Đôi mắt cô chiếu vào anh với vẻ ráo riết linh hoạt; có một quyết tâm sắc bén gần như thành khao khát ở chúng; khăng khăng được biết, được kể. Rất thực tế. Không pha một cảm xúc nào.
“Anh ta đến đây để bắt em.”
Đầu anh gục xuống, cho thấy anh sẽ không nói thêm nữa. Nhưng cô đặt tay dưới cằm nâng mặt anh lên giục anh tiếp tục.
“Anh ta đã phát hiện ra em ở đây.”
Cô nhanh nhẹn gật đầu. Giải thích như vậy là đủ; cô hiểu và chấp nhận. Cái hành động, hậu quả xuất phát từ nó là một chuyện bình thường. Chẳng ai biết trước, chẳng ai mong muốn nó xảy ra. Một hoặc hai cái gật đầu của cô nói với anh những điều đó.
Cô nắm chặt cánh tay anh. Anh không ngờ cô có sức mạnh lớn như thế, nó bỏng giãy ở những ngón tay cô. Anh lẩn thẩn nghĩ rằng đó là một dạng lời khen.
Nhận xét tiếp theo của cô mang một vẻ thân thiết, một mối quan hệ khác hẳn những chuyện yêu đương trước đó của họ.
“Anh dùng cái gì? Anh lấy nó ở đâu?”
“Khẩu súng trong ngăn bàn,” anh nói.
Cô quay người nhìn tấm thảm, trong lúc đấm nhẹ vào ngực anh. Ý nghĩa duy nhất anh đọc ra trong cử chỉ đó là tình bằng hữu ngông nghênh, một kiểu giao kèo suồng sã, ngấm ngầm.
Rồi cô nhìn anh, thật lâu và chăm chú vào mặt anh. Miệng nở nụ cười tủm tỉm, như thể lần đầu tiên khám phá ra trên mặt anh những đường nét thân thuộc, những phẩm chất đáng giá, đáng ngưỡng mộ.
“Anh cần uống một ly,” cô nói vẻ cương quyết. “Em cũng cần uống. Chờ một lát, em đi lấy rượu cho hai ta.”
Anh nhìn theo cô, cô rót hai lần từ chiếc bình rượu thon cổ, rồi đóng nắp bình, và xoay nhẹ như thể nó là núm cửa.
Anh cảm giác mình đang đặt chân vào một thế giới mới xa lạ. Nó có những phong tục từ ngàn đời nay, nhưng đến bây giờ anh mới gặp phải. Thì ra đó là việc người ta làm sau khi giết người: uống rượu. Anh không hề biết, anh không nghĩ ra, nhưng cô thì có. Anh thấy mình như một kẻ học việc trước một tổ sư.
Cô đặt một ly rượu vào tay anh, và tiếp tục nắm chặt bàn tay đó, chỗ cổ tay, như một biểu hiện yêu mến, bàn tay kia của cô giơ thẳng lên cao.
“Giờ anh là người tri kỷ của em,” cô nói với sự hăng hái sôi nổi. “Đáng để giao du. Giờ chúng ta đã cùng một đội.”
Cô cụng ly vào chiếc ly run run của anh, và ngửa đầu dốc cạn ly rượu qua cái miệng e ấp, hiếm khi nào mở to.
“Uống vì chúng ta,” cô nói. “Vì anh. Vì em. uống đi, anh yêu. Vì một cuộc sống ngắn ngủi và kỳ thú.”
Cô ném ly rượu đã cạn vào tường và nó vỡ tung thành những mảnh nhỏ.
Anh thoáng do dự, rồi như vội vã muốn theo kịp cô, để không bị rớt lại sau, anh uống cạn ly rồi cho nó chung số phận với chiếc ly của cô.