Chương 48
Cô đi cả buổi sáng. Chỉ mua mỗi vé tàu thôi mà sao lâu thế? Anh tự hỏi đi hỏi lại, lo toát mồ hôi. Tại sao? Tại sao? Cho dù người ta chạy đi mua hai, ba lần thì cũng xong rồi.
Anh đi qua đi lại, nắm chặt giữa hai tay, cứ như sợ mất, tách cà phê cô đã hâm nóng trên bếp cho anh. Nhưng làn khói ban đầu, uốn lượn theo sau anh trong không khí, đã mỏng đi và tan biến từ lâu. Anh uống liên tục, nhưng vục miệng vào trong tách thật thấp một cách bồn chồn, chứ không đưa nó lên môi. Anh không nhận biết được mùi vị, hay độ ấm của nó, thậm chí không biết nó là gì.
Cô không quay lại rồi. Cô đã bỏ rơi anh, một mình lên tàu, để anh xoay xở đương đầu với những hậu quả do hành động của mình gây ra. Mồ hôi lại toát ra trước ý nghĩ này, mồ hôi xót như máu, song nó chỉ là lớp sương sợ hãi mà thôi. Rồi anh nhớ ra rằng cô đã chủ động đánh thức anh trước khi đi, cô ắt sẽ không làm những công việc trên nếu có ý định bỏ đi, rồi anh lại hít thở bình thường và mối nghi ngờ giảm đi phần nào. Rồi sau đó nó lại quay trở lại, mạnh hơn, như một đường xoắn ốc độc địa.
Anh đang chìm trong hỗn loạn, thì đột nhiên, ở bên ngoài, cơn khủng hoảng kéo đến, và anh phải một mình đối mặt.
Có tiếng gõ cửa mà anh biết không thể là của cô. Và khi anh nhòm qua một trong những ô cửa sổ bên hông trước nhà, áp mặt vào mép rèm, có một cỗ xe ngựa cùng người xà ích đang đứng chờ ai đó.
Tiếng gõ lại vang lên. Và khi anh tiến đến gần hơn, và trộm nhìn từ giữa sảnh tới tấm kính phủ phần trên cánh cửa, có bóng một người đàn ông và một phụ nữ in trên đó, đang đứng chờ trên ngưỡng cửa.
Chóp mũ hình nón của người đàn ông và vành mũ bonnet nghiêng nghiêng của người phụ nữ đặt tương phản cạnh nhau.
Tiếng gõ lặp lại, và như lôi kéo giọng anh bật ra, trái với ý muốn của anh. “Ai đấy?” Quá trễ để anh cố ngăn lại, rút lại, nó đã phát ra rồi.
“Dollard,” giọng người đàn ông trả lời, âm vang.
Anh không biết cái tên ấy, không xác định được nó.
Cái tên nặc danh, anh đứng run rẩy ở đó.
Giọng ấy nói tiếp. “Tôi có thể nói chuyện với anh một phút không, anh Durand?”
Chí ít giọng ấy biết anh. Không phải nhầm lẫn, nó muốn gặp anh.
Anh ắt không thể nào nhích thêm một bước, kể cả sau khi đã lộ mình, nếu họ để yên cho anh.
Nhưng tên anh lại vang lên. “Anh Durand!” Tiếng gõ lần này mang vẻ bối rối và thắc mắc. Và tên anh được xướng lên lần nữa. “Anh Durand. Xin chào! Anh Durand?”
Anh bị kéo lại gần nó như trong trạng thái mê sảng, và tháo chốt, mở cửa ra.
Từ những cái bóng thiếc, họ lập tức bừng lên đầy đủ sắc màu, nửa người từ vai trở lên họ trở thành hình hài hoàn chỉnh.
Người phụ nữ tóc đen, nước da tai tái, mặt khá gầy nhưng vẫn xinh đẹp, mặc bộ váy nhung màu nho, điểm những sợi dây đen ngang người như áo kỵ binh. Người đàn ông mặt hồng hào, với bộ ria màu đồng quặp xuống hai bên mép, một cây can ngoắc trên cánh tay, áo sơ mi vẽ kín những bông lưu ly nhỏ màu xanh lam.
Ông ta nhấc mũ chào Durand, thể hiện sự tôn kính, để lộ đỉnh đầu đã bắt đầu hói và rám nắng.
Thoạt đầu Durand không nhận ra ông ta.
“Tôi là Dollard, người môi giới thuê nhà cho anh.”
Ông ta chờ đợi, chực sẵn nụ cười chờ tiếng À lên, nhưng không có.
“Cô Durand nói rằng anh có việc gấp phải đi và sẽ trả lại ngôi nhà.”
Thì ra cô đã đến đó. Cô tính đến cả việc đó nữa.
“Ồ,” anh ngốc nghếch nói. “Ồ! Ồ vâng! Tất nhiên.”
Dollard nhìn anh lạ lùng, như không hiểu nổi sự chậm hiểu của anh. “Phải vậy không?”
“Đúng,” anh nói, nhận ra mình đã hành xử ngớ ngẩn từ lúc mở cửa.
“Xin phép anh cho tôi đưa vị khách này đi xem nhà?”
“Bây giờ ư?” Anh bàng hoàng hỏi. Anh gần như cảm thấy ngực mình co rút lại vì thiếu dưỡng khí.
Dollard có vẻ bỏ qua ngữ điệu đó, sực nhớ đến sở trường nghề nghiệp. “Ôi, tha lỗi cho tôi. Cô Thayer, xin giới thiệu đây là anh Durand.”
Anh thấy người phụ nữ trẻ liếc nhìn tách cà phê mà tay anh nắm khư khư, cứ như nó là loại chén thánh có quyền lực bí ẩn nắm giữ mạng anh. “Tôi e rằng chúng ta đến không đúng thòi điểm,” cô ta có ý phản đối, “chúng ta đang làm phiền anh Durand. Có lẽ chúng ta nên quay lại vào lúc khác, ông Dollard ạ.”
Tuy nhiên người môi giới đã lách mình vào trong, và vì ông ta không chịu quay ra, nên cô ta phải miễn cưỡng đi theo, vừa đi vừa nói.
“Tôi biết mọi thứ lộn xộn thế nào khi ta định chuyển nhà, phải đóng gói đồ đạc và trăm việc khác,” cô ta xin lỗi.
“Tôi chắc rằng anh Durrand sẽ không phiền gì đâu,” ông Dollard nói. “Mà chúng ta cũng không ở lâu.” Và vì ông ta đã lẳng lặng đóng cửa lại sau khi ba người bước vào, nên nó trở thành việc đã rồi.
Họ nối nhau đi vào sảnh, người phụ nữ trẻ đi giữa; Dollard sải bước mạnh mẽ dầy quả quyết, Durand thì loạng choạng.
“Đây là sảnh lớn. Rất rộng rãi.” Dollard vung tay, như một giọng nam cao opera đang lên nốt cao.
“Ánh sáng cũng khá tốt,” người phụ nữ trẻ đồng ý.
Dollard gõ cây can. “Sàn gỗ được ghép phẳng lì. Không phải lúc nào cô cũng tìm được đâu.”
Họ đi tiếp sau quãng dừng.
“Còn đây là phòng khách,” Dollard trịnh trọng giới thiệu, lại vung tay một vòng.
“Đồ đạc là của anh à, anh Durand?” Cô ta hỏi.
Câu trả lời của Dollard át đi bất cứ câu nào anh có thể ráng sức thốt ra, miễn cho anh phải nói. “Đồ đạc đi cùng ngôi nhà,” ông ta tuyên bố chắc nịch.
Cô ta gật đầu vẻ bằng lòng. “Đây là một gian phòng thanh nhã. Khá là đẹp.”
Cô ta xoay vai lại, chuẩn bị dẫn họ sang chỗ khác, và Dollard đã chuyển hướng theo. Thì đột nhiên, như thể đến giờ mới khựng lại bởi một thứ đã quan sát lúc trước, ông ta ngoái đầu, bất ngờ giơ cây can chỉ.
“Đúng ra phải có một tấm thảm ở đây chứ nhỉ?”
Mảng bụi bỗng trở thành thứ nổi bật nhất trong phòng. Trong ngôi nhà, trong cả thế giới. Màu xám xịt của nó sáng lên, như được vẽ bằng phốt pho. Chí ít đối với Durand, nó gần như hiện ra sáng rực, và anh cảm giác chắc chắn bọn họ cũng thấy vậy. Anh cảm thấy mặt mình trắng bệch và căng ra trên khung xương má, như thể da mặt anh đang bị kéo ra sau đầu bằng một bàn tay tàn ác.
“Ở đâu?” Anh chật vật thốt ra.
Cây can của Dollard gõ xuống hai lần, bực bội nhấn mạnh. “Đây, đây này!”
“Ồ,” Durand nói một cách khúm núm, bẻ vụn mớ từ ngữ thành từng mảnh. “Ồ, cái đó… ồ vâng, tôi nghĩ ông… tôi sẽ phải hỏi…” Rồi đột ngột anh lấy lại tự chủ, và giọng anh đã vững vàng, dù vẫn kích động. “Tôi nhớ ra rồi. Nó đã được đem ra ngoài để đập bụi.”
“Vậy là nó ở bên ngoài à?” Dollard hỏi, có vẻ không hoàn toàn hài lòng. Không chờ trả lời, ông ta bước tới một ô cửa sổ, cúi đầu tránh rèm rủ vào, và quét mắt xung quanh. “Đâu, tôi chẳng thấy nó đâu cả.” Ông ta quay đầu lại Durand, như hỏi lại cho chắc.
Mi mắt người được hỏi, đang nhắm nghiền vì khó ở trong người hay sao đó, đúng lúc ấy mở ra bắt gặp ánh nhìn soi mói của người môi giới.
“Nó an toàn,” anh nói. “Nó ở đâu đó quanh nhà. Tôi chỉ không nhớ chính xác ở đâu…”
“Nó giá trị lắm đấy,” Dollard nói. “Tôi không tin nó bị lấy cắp. Tất nhiên phải tính đến trường hợp đó.”
“Chắc chắn rồi,” Durand thì thào gần như không ra hơi.
Người phụ nữ nhún chân này sang chân kia, trong sự nhắc nhở kiên nhẫn rằng cô ta đang phải chờ đợi; lập tức Dollard nhớ ra nhiệm vụ của mình, liền bỏ dở câu chuyện.
Ông ta vội vã quay lại với cô ta, chạm hai ngón tay vào khuỷu tay cô xun xoe dẫn đường. “Chúng ta tiếp tục chứ, cô Thayer? Tiếp theo mời cô lên xem tầng trên.”
Họ lần lượt đi lên cầu thang, cô ta đi trước, Durand khóa đuôi. Họ đi thong thả, và anh cảm thấy như mỗi bước chân giậm vào tim mình, như thể họ đang bước lên nó. Tiếng sột soạt và tiếng rít không khí của những lớp váy rườm rà của cô ta như tiếng nước xiết đổ vào một máng gỗ, tuy nhiên nó chảy theo hướng khác, đi lên thay vì xuống.
“Cô sẽ thấy ánh sáng được bố trí tài tình khắp ngôi nhà,” Dollard làm dáng ngay khi lên đến nơi. Ông ta móc hai ngón tay cái vào nách áo gi-lê, những ngón tay kia lang thang trên ngực ra chiều thỏa mãn. “Ở đây có thêm phòng khách nhỏ cho phái nữ trong nhà, để thêu thùa, khâu vá chẳng hạn.” Ông ta mỉm cười độ lượng, nháy mắt với Durand sau lưng cô ta, như khoe rằng ông ta rất rành phụ nữ, biết cái gì làm vui lòng họ.
Có vẻ hôm nay tâm trạng ông ta rất tốt; hào hứng thực hiện nhiệm vụ diễn thuyết thường ngày. Durand nhớ sự hào hứng đó, một chữ sáo rỗng trong quá khứ xa xăm; nhớ chữ nhưng không nhớ cảm giác của nó. Hai cổ tay anh lạnh ngắt như thể những cuộn dây thép đang siết vào da thịt chúng, chặn mọi sự lưu thông máu từ bao giờ.
Đến cửa phòng ngủ cô ta dừng lại, lịch sự rút bàn chân đã dợm bước về, ngay khi nhận ra nó dùng làm gì.
“Và căn phòng này có quang cảnh đáng khao khát nhất,” Dollard vẫn ba hoa một cách vô tư. “Nếu cô chịu khó bước vào…”
Mắt cô ta mở to nghiêm nghị, thể hiện sự trách móc. “Ông Dollard!” Cô ta nhắc nhở. “Trong đó có một chiếc giường. Và chồng tôi không đi cùng tôi.”
“Ồ, tôi xin lỗi! Tất nhiên rồi!” Ông ta phản đối một cách tinh vi, khuỵu chân lui ra. “Anh Durand?”
Hai người đàn ông ý tứ rút lui khỏi hành lang ra đầu cầu thang chờ cô ta, với sự tháp tùng đáng ngại đã bị loại bỏ, cô ta bắt đầu đi vào phòng ung dung khảo sát.
“Một mệnh phụ đích thực,” Dollard thì thâm nhận xét đầy ngưỡng mộ, cẩn thận nhìn ra hướng khác để ngay cả đôi mắt ông ta cũng không thể dõi theo chuyến đi của cô.
Bàn tay Durand dò dẫm trên cổ áo, quên mất mình đã cố xoa dịu cổ họng cách đây ít phút.
Cô ta trở ra rất nhanh, mặt hơi đỏ hơn so với lúc bước vào, vì chiếc giường chưa được dọn, nhưng cô ta không nhận xét gì.
Họ lại đi xuống, theo trật tự cũ. Bàn tay nhấp nhô của cô ta rời khỏi lan can ở dưới nhà, và cô ta quay sang Dollard.
“Ông cho tôi xem tất cả rồi phải không?”
“Tôi tin là thế.” Có lẽ đoán chừng cô chưa hoàn toàn bị thuyết phục về sự đáng ao ước của ngôi nhà. Ông ta loay hoay tìm thêm những ưu điểm để khoe, quay đầu hết bên này sang bên kia. “Tất cả trừ tầng hầm…”
Durand cảm thấy bụng mình thắt lại đau nhói, gần như chứng chuột rút. Anh cưỡng lại thôi thúc bản năng muốn gập người lại và sụm xuống.
May là họ không nhìn anh, họ đang nhìn về nơi có cánh cửa của nó, ánh mắt Dollard chỉ đường cho ánh mắt cô ta.
“Nó là một gian hầm lớn và rộng rãi. Tôi sẽ chỉ cho cô. Chỉ mất một phút…”
Họ quay người và đi về phía nó.
Durand tranh thủ lúc ấy bám vào trụ lan can cầu thang, rồi buông ra và bước loạng choạng theo sau họ.
Đầu óc anh quay cuồng, bắn ra những cái cớ để giữ chân họ như những tia lửa bắn ra từ khối đá mài kêu vo vo. Chuột, bảo rằng có chuột, cô ta sẽ sợ, mạng nhện, bụi bẩn, cô ta có thể bị hỏng quần áo…
“Không có đèn,” anh khàn khàn nói. “Hai người sẽ không nhìn thấy gì cả. Tôi e rằng cô Thayer có thể gặp nguy hiểm…”
Tông giọng anh vừa quá gắt vừa quá khàn trong lối đi chật hẹp đang giam hãm họ. Cả hai đều ngoái đầu lại ngạc nhiên trước cái giọng kích động mà anh dùng, như thể họ ở cách anh rất xa. Nhưng lập tức họ có vẻ không chú ý đến sự khác thường đó nữa, ngoài việc ngoái đầu.
“Không có đèn trong gian hầm sao?” Dollard nói với vẻ bất mãn ra mặt. “Anh nên có đèn trong hầm chứ. Anh sẽ làm thế nào nếu muốn xuống đó một mình?” Và nhìn quanh với vẻ cau có vì bị cản trở, ánh mắt ông ta chạm phải cây đèn được đặt gần khung cửa bởi một trong hai người, Bonny hoặc anh - Durand không nhớ là ai - khi đi lên đêm qua.
Một lần nữa anh chết điếng trong lòng, như đã chết điếng khi họ lần lượt xông vào nửa tiếng trước. Anh đã chọn cách phòng vệ sai lầm; lẽ ra nên là chuột hoặc bụi bẩn.
“Anh bảo không có đèn hử?” Dollard kêu lên, mày nhíu lại. “Ở đây có một cái đèn này. Cái gì đây?”
Tất cả những gì anh lắp bắp được bằng một giọng lí nhí là, “Chắc vợ tôi đã để ở đó… lần trước không có… tôi nhớ đã phàn nàn…”
Dollard cầm nó lên, nhấc chụp đèn ra, châm diêm, rồi đậy lại, và nó tỏa ra ánh sáng vàng. Với Durand nó như sự xuất hiện nghi ngút của một vị ác thần bị giam cầm, được triệu hồi để trừng phạt anh.
Anh nghĩ: Mình có nên quay đầu chạy ra khỏi nhà? Mình có nên quay đầu chạy qua cửa? Sao mình cứ đứng ngây ra thế này, nhìn qua vai họ, chờ họ…? Và mặc dù rất muốn quay đầu bỏ chạy, anh thấy mình không làm được; chân anh như dính chặt vào sàn, không nhấc nổi chúng lên.
Dollard đã mở cửa tầng hầm. Ông ta bước vào một cái bệ nhỏ là đỉnh cầu thang, rồi đi xuống một, hai bậc. Một ánh vàng nhợt nhạt hắt ra từ cây đèn, như một thứ có sức sống, phủ lên đằng trước ông ta, xuống những bậc thang còn lại, xuống sàn nhà, bám lên cả những bức tường, nhưng càng ra xa càng yếu đi và tối hơn, cuối cùng tắt ngấm.
Ông ta xuống thêm một hoặc hai bậc, vươn dài cánh tay ra phía trước, chầm chậm huơ một vòng, để nó soi tỏ mọi phía của nơi này, dù chỉ trong giây lát.
“Có những cái bồn cố định,” ông ta nói, “dùng cho việc giặt giũ của cả nhà, và một nồi nấu nước đun bằng gỗ để cung cấp cho cô…”
Ông ta đi xuống tiếp, giờ đã ở dưới chân cầu thang. Cô Thayer đã đặt chân vào cái bệ trên cùng, cẩn thận túm váy tránh chạm vào mặt đất. Durand níu lấy khung cửa bằng cả hai tay, tay này ở trên tay kia, trong tai là tiếng thở ầm ầm như trống trận của chính anh, vươn đầu và vai ngó vào.
Dollard giơ cánh tay về phía cô. “Cô có muốn xuống dưới này không?”
“Tôi nghĩ tôi có thể nhìn từ trên này,” cô Thayer nói.
Nhằm trợ giúp, ông ta huơ chiếc đèn, đảo nó về theo chiều ngược lại. Ánh phản chiếu của nó lướt qua gian hầm, một vệt hình chữ nhật sẫm hơn phần còn lại của gian phòng, một vết đen hoặc bóng tối vuông vắn, như trồi lên trên đường đi của nó, rồi rút xuống khi tâm ánh sáng đi qua. Đột ngột như thể nó đã tự di chuyển theo ý muốn; biến đổi theo đường đi của cây đèn, như một vật tối đen thình lình xông ra rồi bị giật về. Sau đó biến mất.
Nó gây ra một cơn sốc làm tắc nghẽn tim anh và có nguy cơ đột quỵ. Tuy nhiên có vẻ họ không trông thấy nó, hoặc nếu có thấy cũng chẳng biết nó để làm gì. Có lẽ vì mắt họ không lùng sục nó như mắt anh.
Dollard bỗng giơ cây đèn lên cao ngang đầu, giương mắt nhìn tới trước. Hơi vượt ra xa, có lẽ không hẳn nhằm vào nó.
“Chẳng phải kia là tấm thảm trong phòng khách trên nhà mà chúng ta vừa nói đến ư?” Ông ta rời khỏi bậc thang cuối cùng, đi tới chỗ nó.
Cái vệt màu tối sậm ấy lại rụt rè nhô ra, lần này ở dưới chân ông ta. Ông ta dừng lại ngay trên nó, đặt cả hai chân lên, hơi cúi người về một thứ khác gần đó đã thu hút sự chú ý của ông ta. “Làm sao nó lại ở dưới này thế? Anh đập bụi thảm trong tầng hầm à, anh Durand?”
Durand không thốt được tiếng nào. Anh không nhớ nổi có vết máu trên thảm hay không. Giờ anh chỉ có thể nghĩ đến điều đó.
Cô Thayer khéo léo giải nguy cho anh.
“Bản thân tôi thỉnh thoảng cũng làm vậy đấy. Mỗi khi trời mưa phải mang vào tầng hầm. Dù gì tôi cũng chắc chắn anh Durand không đích thân làm chuyện đó.” Cô mỉm cười xoa dịu cả hai người.
“Người ta có thể đợi cho đến khi hết mưa mà,” Dollard làu bàu. “Với lại theo tôi nhớ trời có mưa cả tuần đâu…,” nhưng tạm thời ông ta thôi không chỉ trích nữa.
Một giây sau, Durand nhìn ông ta cúi rạp xuống bê tấm thảm bằng hai tay, nhấc nó lên trong hình dạng cuộn tròn như cũ, quay về phía cầu thang ôm chéo nó trước mặt, để trả nó về chỗ của nó. Có lẽ ông ta muốn tránh làm nó ô uế thêm bằng việc trải nó ra trên nền hầm bẩn thỉu.
Nhưng ánh sáng trên cầu thang sẽ rõ hơn. Hơi thở của Durand lại nóng rực trong vòm miệng như phả ra từ lò nung. Nếu có gì muốn nói chắc anh cũng không thể thốt thành lời. Họ lùi sang hai bên nhường lối cho Dollard, cô Thayer nhẹ nhàng duyên dáng, Durand thì loạng quạng mò mẫm và may mà anh thoát khỏi sự chú ý của họ, hoặc nếu không, cũng được quy cho sự vụng về của nam giới khi xoay xở trong không gian chật hẹp.
Rồi họ quay người, đi theo người mang thảm về phòng khách phía sau, Durand lén vịn tay vào tường, như một người què.
“Việc đó để sau cũng được, ông Dollard ạ,” vị phu nhân trẻ nói.
“Tôi biết, nhưng tôi vốn muốn cô trông thấy căn phòng này trong tình trạng tốt nhất.”
Dollard hất mép thảm lỏng lẻo lên, để nó tung ra rồi rơi xuống, lệt xệt lùi lại cho nó trải hết ra sàn nhà.
Một vật gì đó bay ra. Một vật nhỏ không xác định. Bằng mắt thường có thể thấy nó nảy lên, nhưng không biết là thứ gì. Nó đáp xuống mặt sàn gỗ kêu lách cách.
Dollard cúi xuống, kẹp hai ngón tay vào một chỗ không có gì cả, ít nhất là từ góc nhìn của hai người đang đứng kia. Rồi ông ta đứng lên cùng với nó, bất kể nó là gì, đem đến chỗ Durand.
“Tôi nghĩ cái này là của anh,” ông ta nói, nhìn thẳng vào mắt anh. “Một chiếc cúc cổ áo của anh, anh Durand.”
Ông ta dúi nó với một lực hơi mạnh, đầu nhọn chĩa ra, vào lòng bàn tay miễn cưỡng ngửa ra của Durand, và anh khép những ngón tay bao lấy nó. Nó còn ấm hơi tay của Dollard, nhưng với Durand thì đó là hơi ấm từ cổ họng của Downs. Nó như cái đinh của cây thập ác cắm thẳng vào lòng bàn tay anh, và anh gần như chờ đợi thấy máu rỉ ra qua những kẽ ngón tay nắm chặt.
“Anh Thayer nhà tôi luôn đánh rơi nó khắp nhà,” cô Thayer dễ mến xen vào, trong nỗ lực xoa dịu cái mà cô cho là nỗi xấu hổ của anh khi bị bóc mẽ trước mặt cô, về một trong những phụ kiện cần thiết cho trang phục riêng tư. Nghĩ rằng về phương diện đó đàn ông cũng giống phụ nữ, và nếu một chiếc kim băng hay móc gài nào đó tương tự bị tuột khỏi quần áo trong của cô, rất có thể cô cũng có vẻ mặt rụng rời kia và hoang mang tìm chỗ dựa từ một lưng ghế, y như cô đang thấy ở anh bây giờ.
“Hừm!” Dollard hừ mũi như muốn nói, “Chỉ kẻ luộm thuộm mới thế chứ tôi thì không nhé!”
Rồi ông ta quay về với tấm thảm, di di chân vuốt phẳng những nếp gợn.
Durand nhét cái cúc vào sâu trong túi. Một cảm giác bỏng rát xuyên qua những lớp vải ở đó. Anh lén lút quan sát họ qua đôi mắt đảo lia lịa, căng thẳng sợ hãi. Anh tự hỏi đối với họ, anh có ‘ảnh hưởng’ như họ đối với anh không. Có vẻ là không, vì ánh mắt họ không đột nhiên chăm chú hay lo lắng thái quá mỗi khi liếc nhìn về phía anh.
“Tôi nghĩ tôi đã cho cô xem hết ngôi nhà rồi,” cuối cùng ông Dollard nói.
“Vâng, tôi cũng nghĩ vậy,” vị khách tương lai của ông ta đồng ý.
Họ thong thả đi ra cửa trước, Durand như một hồn ma loạng choạng đi bên cạnh. Cuối cùng cũng có cánh cửa cho anh bám vào, và mọi dao động đung đưa của nó chắc chắn là do sự bất ổn của mấy cái bản lề.
Cô Thayer quay sang anh, mỉm cười. “Cảm ơn anh rất nhiều, hi vọng chúng tôi đã không làm phiền anh.”
“Chúc một ngày tốt lành,” Dollard nói, với vẻ ngắn gọn lịch sự mà, theo quan điểm của ông ta, chả việc gì phải phí lời với những người sắp hết đem lại nguồn thu cho mình.
Ông ta hộ tống cô Thayer ra xe, giúp cô bước lên, trong lúc vồn vã ra sức thuyết phục cô sớm ký hợp đồng. Ông ta vừa định bước vào xe theo cô và cho xe chạy -trước sự nhẹ nhõm khôn tả của Durand - thì bỗng dưng Bonny xuất hiện, đi gấp gáp trên vỉa hè, và rẽ vào nhà, liếc nhìn về phía họ.
Durand mở rộng cửa, đợi cô vào để đóng cửa, nhưng cô dừng lại, chắn ngang.
“Vì Chúa,” anh kiệt sức nói, “vào trong đi… anh sắp chết rồi.”
“Chỉ một phút thôi,” cô nói, không xê dịch. “Ông ta không thể cho thuê ngôi nhà này trừ phi chúng ta ký thanh lý hợp đồng. Anh đưa chìa khóa cho ông ta chưa?”
“Chưa.”
“Tốt!” Cô buông gọn. Trước sự hốt hoảng của anh, cô giơ tay vẫy Dollard lại. Thậm chí cô còn gọi to tên ông ta. “Ông Dollard! Xin chờ một phút!”
“Đừng gọi ông ta lại,” Durand nài nỉ. “Để ông ta đi đi. Em đang nghĩ gì thế?”
“Em biết mình đang làm gì,” cô nói chắc nịch.
Durand, thất kinh, nhìn tay môi giới miễn cưỡng bước xuống, đi về phía họ, xoa hai bàn tay một cách hài lòng. “Tôi nghĩ tôi vừa chốt được hợp đồng,” ông ta tiết lộ. “Và với một cái giá rất hời. Cô ấy gần như đã nghĩ lại.”
Nhận xét ấy làm lóe lên một tia tính toán sắc sảo trong mắt Bonny, Durand nhận thấy thế.
“Vậy ư?” Cô hỏi một cách êm ái. “Nhưng ông đã quên mất vài điều thì phải? Chìa khóa, và bản thanh lý hợp đồng.”
Dollard vội vàng lục túi. “Ồ, tôi quên thật. Nhưng tôi có mang biểu mẫu đây, và nếu bây giờ cô đưa tôi chìa khóa, thì tôi đỡ phải quay lại lần nữa để lấy chúng…” Ông ta ngoái nhìn cỗ xe đang đợi. Ông ta nóng lòng muốn đi gần bằng Durand nóng lòng muốn ông ta đi.
Song Bonny không có vẻ gì vội vã. Cô chặn tập giấy Dollard đang đưa cho Durand, tự mình xem xét. Cô cố tình làm ngơ vẻ khẩn cầu thầm lặng, điên cuồng trong đôi mắt mở to của Durand. Anh lén lau mồ hôi trán.
Cô ngẩng lên, không có ý trả lại tập giấy cho Dollard, mà đập đập nó vào cổ tay mình.
“Còn phần không sử dụng đến trong tiền thuê nhà đâu? Tôi không thấy ghi trong này…”
“Phần không sử dụng…? Tôi không hiểu ý cô.”
Cô vẫn giữ tập giấy trước bàn tay toan chìa ra lấy lại của ông ta. “Tiền thuê nhà tháng này đã trả trước.”
“Đúng thế.”
“Nhưng hôm nay mới là mùng 10. Còn ba tuần chúng tôi không ở thì sao?”
“Cô không được quyền đòi lại. Một khi tiền đã trả thì tôi không thể hoàn lại cho cô.”
“Tốt thôi,” cô đanh giọng. “Nhưng ông cũng không thể cho bất cứ ai thuê nó cho đến sau ngày 30 của tháng này. Tốt nhất ông hãy đi thông báo cho quý cô kia, để cô ấy đỡ phải thất vọng.”
Miệng Dollard trễ xuống, sửng sốt. “Nhưng hai người có ở đây nữa đâu! Hai người sẽ đi hôm nay. Chính cô sáng nay đến nói với tôi mà.” Ông ta liếc nhìn đầy bất lực về cỗ xe, nơi cô Thayer đang chờ bắt đầu có những dấu hiệu đoan trang của sự sốt ruột. Cô nhìn ông ta dò hỏi, cô che miệng ho, ở xa nên không nghe được. “Thôi nào, hãy biết điều đi, Madame. Chính miệng cô nói…”
Bonny không lay chuyển. Thậm chí khóe miệng cô còn thấp thoáng nụ cười. Cặp mắt cô, như thể đoán biết những dấu hiệu kín đáo, khắc khoải mà Durand đang cố gửi cho cô sau đôi vai quay nghiêng của người môi giới, từ chối nhìn qua anh. “Ông mới nên biết điều, ông Dollard. Chồng tôi và tôi sẽ không bắt ông trả lại phần tiền thuê nhà còn thừa trong tháng nữa. Trong trường hợp đó chuyến đi của chúng tôi rất có thể bị hoãn lại. Hoặc ông trả cho chúng tôi, hoặc chúng tôi ở lại đây cho đến ngày mùng 1 tháng sau.”
Cô cố ý quay người đi vào tiền sảnh. Cô dừng lại trước gương. Trước con mắt mở to của Dollard, cô đưa hai tay lên chiếc mũ bonnet, tháo mũ ra. Cô vuốt lại tóc, đảm bảo nó không bị rối.
“Đóng cửa lại đi, anh yêu,” cô bảo Durand. “Rồi lên gác giúp em dỡ hành lý ra. Chúc ông một ngày tốt lành,” cô nói thêm với Dollard.
Nhà môi giới lo sợ nhìn cỗ xe, ước lượng xem mình có thể cả gan bắt nó chờ bao lâu nữa. Rồi ông ta quay sang cô, lúc này đang đi về phía cầu thang, như định lên gác. Rồi lại ngoảnh về cỗ xe. Rồi lại ngoảnh sang cô. Ít ra chiếc xe còn đứng một chỗ, nhưng cô thì không.
Cuối cùng ông ta lật đật chạy vào nhà, đuổi theo cô, vượt qua Durand lúc này đang rên rỉ thành tiếng. “Khoan đã!” Ông ta đầu hàng. “Thôi được, một tháng là 75 đô la. Tôi sẽ đưa cô tiền thuê trong hai tuần cuối. 38 đô la, 50 xu.”
Bonny quanh lại, nở nụ cười lạnh tanh, lắc đầu. Rồi cô đi tiếp, đặt chân lên bậc thang đầu tiên, tay đặt lên trụ lan can. “Hôm nay không phải ngày 15 trong tháng. Hôm nay là mùng 10. Chúng tôi mới sử dụng ngôi nhà này được một phần ba số tiền đã trả. Vì thế hai phần ba còn lại thuộc về chúng tôi. 50 đô la.”
“Madame!” Dollard vò đầu, quên mất rằng không còn tóc để nó rối bù lên nữa.
“Vâng!” Cô đáp một cách mỉa mai.
Ngoài cửa bỗng tối lại và người đánh xe xuất hiện ở đó sau lưng ba người. “Xin lỗi ông, nhưng quý cô ngoài kia bảo cô ấy không thể đợi được nữa…”
“Đây,” Dollard cay đắng nói, rút tiền trong ví ra, “50 đô la. Hãy để tôi rời khỏi đây trước khi cô đòi tiền tôi vì đã ở trong ngôi nhà này ít phút.”
“Anh ký giấy đi, anh yêu,” cô ngọt ngào nói, “và đưa cho ông Dollard chìa khóa. Chúng ta không được giữ chân ông ấy thêm nữa.”
Durand đóng cửa lại sau lưng người đàn ông đang giận bốc khói. Rồi anh đổ gục vào nó. “Sao em có thể làm vậy, khi biết thứ gì đang nằm dưới sàn…?” Anh nghẹn giọng, mở phanh cổ áo. “Đầu óc em dùng để làm gì? Trái tim em dùng để làm gì?”
Cô đang đứng trên cầu thang, hân hoan đếm mớ tiền túm trong tay.
“Ờ, nhưng ông ta đâu có biết; sự khác biệt nằm ở đó. Anh chưa bao giờ chơi poker phải không, Lou?”