← Quay lại trang sách

Chương 60

Khoảng bốn, năm ngày sau, anh đang trở về nhà từ chuyến đi dạo - đi dạo giờ đã thành thói quen - thì bỗng nhìn thấy bóng dáng cô xa xa phía trước, cách hai hoặc ba nhánh đường, nhưng cùng chiều với anh, trên con đường rợp bóng cây.

Khoảng cách quá lớn nên bóng người bị thu nhỏ đi nhiều, và nhất là tác động chập chờn của ánh nắng xiên và bóng râm đổ xuống làm hình ảnh nhòe đi, khiến anh không thể chắc chắn đó đúng là cô. Tuy nhiên anh nghĩ mình nhận ra dáng đi của cô, và khi có người đi ngang qua cô thì anh có thể khẳng định qua so sánh vì cô rất nhỏ bé so với họ, không chỉ do khoảng cách, và trên hết là màu váy này anh đã thấy ở cô khi anh rời nhà một tiếng trước, với chất vải xéc màu mận chín. Tóm lại là có quá nhiều điểm trùng hợp; anh dám chắc đó là Bonny.

Gọi cô vô ích, vì ở quá xa, cô ắt không nghe thấy. Ngay cả anh cũng thấy khoảng cách quá lớn để mong bắt kịp cô trong một quãng thời gian không nhỏ chạy thục mạng; cô sẽ gần như vào đến trong nhà khi anh tới nơi. Vả lại chẳng có lí do gì để vội vã, không có trường hợp khẩn cấp, anh sẽ sớm gặp cô, ngoài ra anh cũng phần nào thấm mệt sau chuyến đi và ngán phải chạy bộ ngay sau đấy.

Mới một giây trước, anh không hề thấy cô, và thời điểm cô đột ngột xuất hiện là ở giữa hai nhánh đường, nên anh đoán cô đã đi ra từ một cánh cửa hay một cửa hàng nào đấy đúng lúc anh bắt gặp.

Khi gần đến nơi, anh quay đầu nhìn sang, thoạt đầu chỉ vì tò mò, lúc đi qua, muốn biết cô đi từ đâu ra, cô đến đấy làm gì. Anh luôn cho rằng đó là cô.

Sự tò mò hời hợt trở thành kinh ngạc khi vừa liếc nhìn, và khiến anh sững lại. Tòa nhà ở bên cạnh anh là bưu điện. Liền kề nó là một tiệm tạp hóa lụp xụp, nhưng gần nhà họ có đầy những cửa hàng kiểu này, và nom ưa nhìn hơn nhiều, nên khó có khả năng cô cất công lặn lội đến tận đây. Chắc chắn cô vừa từ bưu điện ra.

Chỉ có một lí do duy nhất khiến cô tìm đến nó: lẩn tránh. Có một hòm thư để họ bỏ thư ở ngay trên con phố họ ở; có một bưu tá đưa thư vẫn chạy qua trước cửa nhà. Và dù gì họ cũng chưa từng có thư? Ai biết họ đang ở đây? Ai biết họ là ai?

Lòng đầy thấp thỏm, và với ánh nắng vừa rực lên đã chìm sau một đám mây đang kéo đến, anh đã xoay người đi vào trước cả khi tính xem mình định làm gì. Vừa bước vào anh đã hối hận, liền cố gắng quay ra. Nhưng sự bất an tỏ ra mạnh hơn sự miễn cưỡng khi do thám cô, buộc anh tiến lại chỗ nhân viên đeo dây nịt ở tay áo ngồi sau ô cửa nhỏ khắc chữ Hòm thư lưu .

“Tôi đang tìm một người,” anh nói một cách ngượng ngập. “Hẳn là tôi đã… lạc mất cô ấy. Có cô gái nào tóc vàng người nhỏ nhắn - ồ, cao không quá chừng này - vào đây trong mấy phút qua không?”

Anh nhớ lại cái ngày anh đưa cô đến ngân hàng ở New Orleans. Chắc hẳn cô vừa tạo ra sức ảnh hưởng tương tự ở đây. Cô sẽ để lại ấn tượng ở mọi nơi cô ghé đến.

Mắt người nhân viên sáng lên như hồi quang phản chiếu. “Có đấy,” anh ta nồng nhiệt đáp. “Cô ấy vừa ở ô cửa này mấy phút trước.” Anh ta lần lượt chải chuốt hai cái băng tay. “Cô ấy hỏi về một bức thư.”

Cổ họng Durand khô rang, nhưng anh ép ra bằng được câu hỏi. “Vậy cô ấy… anh có thư cho cô ấy chứ?”

“Chắc chắn rồi.” Anh nhân viên lắc lắc đầu trong sự ngưỡng mộ thầm kín, búng lưỡi cái chóc trong miệng. “Cô Mabel Greene,” anh ta hồi tưởng. “Chắc cô ấy mới đến đây, tôi không nhớ mình từng…”

Nhưng Durand không còn ở đó nữa.

Cô ở phòng khách dưới nhà. Mũ và khăn choàng đã biến mất như thể cô chưa từng mang chúng. Cô đang đứng trước chiếc bàn giữa phòng sửa sang những bông hoa cắm vào một chiếc bát từ hôm qua, những bông hoa trường thọ, rút ra những bông có dấu hiệu héo úa. Không khí có mùi cháy sém, mùi tro, như có thứ gì vừa bị đốt; anh ngửi thấy ngay lúc bước vào nhà.

“Anh về rồi à?” Cô thân thiện hỏi, ngoảnh lại nhìn anh, rồi quay về với những bông hoa.

Anh hít vào hai lần liên tiếp, ngẫu nhiên xác nhận cái mùi lạ kia.

Dù không nhìn anh nhưng hẳn đã cô nghe thấy. Cô bỗng rời khỏi đám hoa, đi ra cửa sổ và đẩy nó lên một khoảng rộng. “Em vừa hút thuốc trong này,” cô chưa khảo đã xưng. “Mở ra cho thoáng.”

Không có dấu vết tàn dư nào của điếu thuốc trên cái khay cô thường sử dụng.

“Em đã ném nó đang cháy dở ra ngoài cửa sổ,” cô nói, lại quay về với những bông hoa. “Nó không ngon. Dạo này người ta làm tệ quá.”

Nhưng trước giờ mùi thuốc lá chưa bao giờ khiến cô bận tâm. Và đây không phải mùi sợi thuốc, nó giống mùi hăng hắc để lại sau khi đốt giấy thì hơn.

Mình sẽ biết cô ấy nói dối ngay bây giờ, mình sẽ biết, anh buồn bã nghĩ. Cô ấy không thể lảng tránh chuyện này. À, tại sao mình phải hỏi cô ấy? Tại sao mình cứ muốn tự hành hạ bản thân? Nhưng câu hỏi đã bật ra rồi, anh chỉ có thể giữ lại một giây nếu lưỡi anh bị đứt mà thôi.

“Có phải em vừa ở ngoài đường không?”

Mất một lúc cô mới trả lời; nhưng sao phải phân vân nếu như cô vừa trở về thật? Cô rút thêm một bông hoa ra, xoay xoay cuống hoa, tìm kiếm khuyết điểm. Cô đặt nó xuống. Rồi cô quay lại đối diện với anh, đã khá sẵn sàng. Cô nhìn mắt anh chiếu vào bộ trang phục vải xéc màu mận của mình một lúc. Khi ấy cô mới trả lời.

“Phải.”

“Em đi đâu, đến bưu điện à?”

Cô lại mất một lúc nữa. Như đang hình dung cái địa chỉ cô vừa ghé vào, cố nhớ lại nó.

“Em có việc,” cô nói khá vững vàng. “Có thứ em cần mua.”

“Thứ gì?” Anh hỏi.

Cô nhìn xuống những bông hoa. “Một cây kéo làm vườn để cắt cuống hoa.”

Cô đã chọn đúng. Người ta sẽ bán nó ở tiệm tạp hóa. Và có một tiệm tạp hóa kế bưu điện.

“Vậy em mua được không?”

“Họ chưa có ngay. Họ đề nghị gửi đến cho em, nhưng em nói nó chẳng bõ phiền.”

Anh chờ đợi. Cô không định nói thêm.

“Em không đến bưu điện à?”

Nhưng bằng việc lặp lại câu hỏi ban đầu, đã lộ ra sự trả lời quanh co của cô. Anh nhận ra điều đó. Khi đặt câu hỏi là anh đã cho cô hay anh biết cô đã đến đó.

“Em có vào bưu điện,” cô lơ đãng đáp. “Giờ em mới nhớ ra, để mua mấy con tem. Chúng đang ở trong ví em đây. Anh có muốn xem không?” Cô mỉm cười, như một người chuẩn bị sẵn cho mọi tình huống xảy ra.

“Không,” anh đáp vẻ không vui. “Nếu em bảo em mua tem, thì thôi.”

“Em nghĩ cứ cho anh xem thì hơn.” Giọng cô không tổn thương cũng chẳng thù địch, mà khác thường, thích thú. Như một người kiên nhẫn chịu đựng những thói xấu của người khác, tha thứ hết cho chúng.

Cô mở túi lấy ví tiền ra, chìa cho anh xem hai mảnh nhỏ hình vuông đỏ sẫm, dính vào nhau theo đường răng cưa.

Anh chỉ liếc qua. Cô có thể đã mua chúng nửa tiếng trước, hoặc đã giữ chúng cả tháng nay.

“Nhân viên ở đó nói đã đưa cho em một bức thư.”

“Vậy ư?” Lông mày cô nhướng lên cười cợt.

“Anh đã miêu tả em cho anh ta.”

“Anh ta đã đưa,” cô hòa nhã nói.

“Nó được gửi cho Mabel Greene.”

“Em biết,” cô đồng ý. “Vì thế em đã trả nó lại. Anh ta nhầm em với người khác. Em vô tình đứng gần cửa của anh ta trong lúc cất tem, quay lưng về phía anh ta. Bỗng dưng anh ta gọi, ‘Cô Greene, tôi có một bức thư cho cô và chìa nó ra cho em. Anh ta làm em quá ngạc nhiên đến mức nhận lấy nó không hề nghĩ ngợi. Rồi em nói, ‘Tôi không phải là cô Greene’ và trả nó lại cho anh ta. Anh ta xin lỗi em, và thế là hết. Nghĩ lại thì em thấy sự nhầm lẫn của anh ta không thật. Em nghĩ anh ta đang cố…,” cô đổi giọng thành vẻ khó xử miễn cưỡng, “… tán tỉnh em. Anh ta tìm cớ để bắt chuyện với em, bằng cách bảo em rất giống một người khác. Em chỉ quay đầu và đi ra.”

“Anh ta không nói em đã trả lại bức thư.”

“Nhưng em nói em đã trả lại.” Không có sự bực bội trong giọng cô, không có cảm xúc nào. “Và anh phải chọn, tin người nào trong bọn em.”

Anh cúi đầu. Lẽ ra anh nên biết mình sẽ thua trong cuộc chiến trí não. Cô hoàn toàn không có ý thức về tội lỗi. Điều đó không có nghĩa là cô không có tội lỗi, mà chỉ không có nỗi sợ hãi đi kèm và giúp lật tẩy nó. Anh có đưa cô đến đối chất với gã nhân viên nọ, thì tình hình cũng chẳng thay đổi mảy may. Cô ắt sẽ chối bỏ thẳng thừng sự xác nhận của anh ta, chắc chắn làm nhụt chí anh chàng.

Khi đi ra khỏi phòng, cô lướt tay qua lưng áo anh, gần như âu yếm.

“Anh không tin em phải không, Lou?” Cô hỏi một cách bình thản.

“Anh rất muốn tin.”

Cô nhún vai ở ngưỡng cửa. “Vậy thì cứ tin đi, đó là tất cả những gì anh phải làm. Đơn giản thôi mà.”

Cô đi lên cầu thang với vẻ ung dung tự mãn. Và dù không nhìn thấy mặt cô, anh chắc rằng nó cũng đang mang một nụ cười tự mãn, ăn khớp với dáng đi.

Anh ngồi phịch xuống trường kỷ trước lò sưởi, hối hả xoa hai bàn tay xuống sàn lò bằng gạch. Có một ít tro giấy trên bề mặt nhẵn nhụi đen đúa; rất ít, không đủ để nắm trong tay. Anh lật lên một mẩu chưa cháy hết, có lẽ là chỗ những ngón tay của người đốt cầm vào đến lúc cuối cùng. Nó là góc giấy bên dưới, hai mép bị xé ngang theo đường cháy nham nhở.

Nó chứa từ cuối cùng. “Billy.” Và cũng không nguyên vẹn. Nét đóng kín phía trên của chữ ‘B’ bị khuyết, thay bằng đốm nâu của lưỡi lửa.