Chương 62
Hôm sau, anh không đả động gì đến cuộc đi chơi say mèm của cô, càng không nói gì đến cái tội lỗi lớn hơn đã che đậy. Anh chờ xem cô có định lặp lại nó không (trong thâm tâm anh đã manh nha ý định bám theo cô và giết chết gã kia khi anh tìm thấy hắn), nhưng cô không làm thế. Nếu cuộc hẹn tiếp theo đã được ấn định, thì không phải vào ngày tiếp theo.
Cô nằm trên giường tới muộn, để mặc việc chăm lo anh cho một người phụ nữ vụng về, cách ngày lại đến dọn dẹp và nấu ăn cho họ, ba ngày một tuần. Ngay cả tình trạng khó chịu tai tiếng này, thường được gọi đơn giản và thuần khiết là ‘đau đầu’, hậu quả sự quá chén, anh cũng không hề trách cô.
Cuối cùng khi xuống ăn tối, cô tỏ ra hòa nhã hết sức chân thật. Cứ như (anh tự nhủ) trong cô có hai con người. Con người đúng mực không biết hay nhớ ra mối oán hận bản năng mà con người say xỉn vô tình bộc lộ đêm trước. Hoặc nếu có nhớ, thì đang cố gắng sửa chữa.
“Amelia về rồi à?” Cô hỏi. Đó là câu hỏi không cần thiết, chỉ cốt gợi chuyện. Sự im ắng dưới bếp và việc không có ai đứng chờ ở bàn, tự nó đã là câu trả lời.
“Tầm 6 giờ,” anh đáp. “Chị ấy đã sắp bàn ăn và để thức ăn hâm nóng trên bếp.”
“Em sẽ giúp anh mang nó ra,” cô nói khi thấy anh dợm bước đi.
“Em có làm được không?” Anh hỏi.
Cô cụp mắt xuống trước sự khiển trách, như thừa nhận mình đáng bị thế.
Họ ngồi vào bàn. Cô rụt rè đưa qua cho anh lát bánh mì. Anh vờ như không thấy, nhưng rồi mủi lòng lại cầm lấy, miệng lẩm bẩm. “Cảm ơn.” Mắt họ giao nhau.
“Anh rất giận em phải không, Lou?” Cô lí nhí.
“Anh có lí do để giận không? Chỉ bản thân em mới trả lời được.”
Cô liếc nhanh anh, như muốn nói. “Anh biết được bao nhiêu?”
Anh thầm nghĩ, Liệu có tên đàn ông nào sẽ ngồi đây thế này, ngoan ngoãn giữ im lặng, biết điều mình làm? Rồi anh nhớ đến lời mình đã nói với Jardine hôm trở về New Orleans, Tôi phải làm những chuyện mà tôi phải làm. Không thể khác.
“Em đã hành xử không tốt lắm,” cô khẽ nói.
“Em không làm gì quá đáng cả,” anh cho cô hay. “Khi về nhà em chỉ hơi giận dỗi. Thế thôi.”
“Và trước khi về nhà em nghiêm chỉnh lắm,” cô nói ngay. “Về đây em mới hư đó.”
Sao mà chúng mình hiểu nhau thế, anh nghĩ, đúng là một cặp ăn ý.
Cô bật dậy, đi vòng ra sau ghế anh, cúi người qua vai và hôn anh trước khi anh kịp chặn lại.
Trái tim anh lập tức nổ bùm như thuốc súng, lửa lóe lên trong lồng ngực, mặc dù nhìn bên ngoài không có dấu hiệu gì. Mình bị mua chuộc với cái giá thật rẻ, anh nghĩ. Dễ dàng nhượng bộ. Đây là tình yêu hay là sự vỡ nát của lòng tự trọng đàn ông?
Anh ngồi đó như khúc gỗ, hai tay đặt trên bàn, cương quyết tránh xa cô.
Đôi môi đã phản lại anh, dù anh cố kiềm chế. “Nữa đi,” nó nói.
Cô cúi xuống lần nữa, và lại hôn anh.
“Nữa đi,” anh nói.
Môi anh đang run lên.
Cô lại hôn anh.
Đột nhiên anh bừng tỉnh. Anh đã giữ chặt cô một cách thô bạo, gần như một vụ tấn công chứ không phải một cái ôm. Anh lôi cô vào lòng, vùi mặt mình vào mặt cô, ngấu nghiến môi cô, cổ cô, vai cô.
“Em không biết em đã làm gì anh đâu. Em làm anh phát điên. Ôi, đây không phải tình yêu. Đây là sự trừng phạt, là lời nguyền. Anh sẽ giết bất cứ kẻ nào định cướp em khỏi anh… anh sẽ giết em. Và anh sẽ đi theo em, sẽ chẳng còn lại gì hết.”
Và khi môi anh trở lại tìm môi cô, lời nói âu yếm duy nhất xen giữa những nụ hôn, là, “Quỷ bắt em đi!… Quỷ bắt em đi!… Quỷ bắt em đi! Không gã đàn ông nào được phép tìm hiểu em!”
Cuối cùng khi anh buông cô ra, kiệt sức, cô nằm lả trong tay anh. Trên mặt cô hiện lên vẻ kì lạ, thảng thốt. Như thể sự dữ dội của anh đã gây ra điều gì đó mà cô không lường trước.
Cô nói như mê sảng, chầm chậm đưa tay lên trán như khôi phục một ký ức nào đó thiết yếu với cô, mà anh suýt nữa đã thiêu cháy, “Ôi, Louis, anh quá dè dặt để biết hết về bản thân. Ôi, anh yêu, anh gần như đã khiến em quên…”
Rồi ý nghĩ khập khiễng, lảo đảo ấy tắt ngâm giữa chùng.
“Quên ai?” Anh truy vấn. “Quên cái gì?”
Cô bối rối nhìn anh, như chợt nhận ra mình vừa lỡ miệng. “Quên… bản thân em,” cô yếu ớt kết thúc.
Đó không phải đối tượng cô ám chỉ, anh tự nhủ với sự sáng suốt sầu muộn. Tuy nhiên đó cũng là sự thật. Mình không có đối thủ thực sự nào, ngoài cô ấy. Chính bản thân cô ấy ngăn cản cô ấy yêu mình.
Hôm sau, cô không ra khỏi nhà. Anh lại nín thở chờ đợi, nhưng cô vẫn tỏ ra ngoan ngoãn. Nếu có cuộc hẹn nào, thì nó đang bị trì hoãn.
Ngày tiếp theo cũng vậy. Người giúp việc đến, và khi xuống cầu thang, anh bắt gặp họ đứng chụm vào nhau ở sảnh, thì thầm to nhỏ. Anh nghĩ mình đã thấy Bonny vội vã lần vạt áo, như che giấu thứ gì đó cô vừa nhận.
Cô ắt sẽ thực hiện việc đó trót lọt, nhưng người phụ nữ da đen là một động sự tồi, khi thấy anh, chị ta bắt đầu lùi xa khỏi cô chủ một cách lộ liễu, do đó đã gieo vào đầu anh ý nghĩ giữa họ có chuyện gì đó.
Còn nhiều cách liên lạc khác ngoài gặp trực tiếp, anh tự nhắc nhở. Có lẽ cuộc hẹn mình lo sợ vẫn được duy trì ngay trước mắt mình, trên một mẩu giấy.
Cuối bữa tối hôm đó, cô trở nên lặng lẽ rõ rệt. Người phụ nữ, kẻ chắp mối cho sự phản bội, đã ra về, một lần nữa, chỉ còn họ với nhau.
Những lời bình luận thông thường của cô trong chuyện phiếm bên bàn ăn càng lúc càng hiếm hoi. Chẳng mấy chốc, cô không đưa ra nhận xét nào nữa, chỉ trả lời những nhận xét của anh. Rồi phần này cũng bắt đầu thưa thớt, anh gánh cả trách nhiệm phát biểu cho hai người. Tất cả những gì anh nhận được bây giờ là những cái gật đầu lơ đãng và ừ hữ mơ hồ, khi ý nghĩ của cô rõ ràng đặt ở nơi khác.
Cuối cùng nó tác động đến cả việc ăn uống của cô, bắt đầu chậm lại và giảm bớt, thay bằng vẻ suy tính chuyện gì đó mà tâm trí theo đuổi từ trước. Nó hẳn đang theo đuổi chuyện gì đó, bởi bản chất của trí óc không thể suy tính suông. Chiếc dĩa của cô sẽ ở nguyên tư thế gỡ một miếng thức ăn hàng mấy phút. Hoặc nó sững lại trên đường đến miệng cô, và cứ lơ lửng như thế.
Rồi sự lơ đãng này chấm dứt một cách bế tắc như lúc bắt đầu. Bất kể dòng suy nghĩ của cô đã lang thang đến đâu, giờ nó đã bị chặn lại, hoặc đã tới đích.
Ánh mắt cô chiếu vào anh.
“Anh còn nhớ buổi tối chúng ta cãi nhau không?” Cô nhẹ nhàng lên tiếng. “Anh đã nói gì đó về hợp đồng bảo hiểm anh từng lấy ra hồi chúng ta sống ở đường St. Louis. Nó có thật à? Anh thực sự vẫn giữ nó? Hay anh chỉ bịa ra giống như lần anh nói vẫn còn tiền?”
“Anh vẫn giữ nó,” anh nói với vẻ vô tâm. “Nhưng nó đã mất hiệu lực vì đã bị dừng nộp theo định kỳ.”
Cô đang mải miết ăn, như bù lại thời gian đã phí phạm bỏ bê thức ăn trước đó. “Vậy là nó hoàn toàn vô giá trị à?”
“Không, nếu việc trả tiền được nối lại thì nó sẽ lại có hiệu lực. Từ đó đến nay cũng chưa lâu lắm.”
“Phải nộp bao nhiêu?”
“500 đô la,” anh trả lời vẻ khó chịu. “Chúng ta có từng ấy không?”
“Không,” cô ngoan ngoãn đáp, “nhưng em hỏi thì có mất gì đâu?”
Cô đẩy đĩa ra. Cô cụp mắt xuống, hai bàn tay chắp vào nhau, như thể anh đã cự tuyệt cô. Rồi dùng một ngón tay xoay xoay chiếc nhẫn kim cương vốn là quà cưới anh tặng cô. Cô xê dịch nó bên này qua bên kia với vẻ trầm ngâm tư lự.
Ai biết khi làm thế cô có nhìn nó hay không? Ai biết cô đang nhìn cái gì? Ai biết cô đang nghĩ gì? Hành động đó chẳng nói lên gì hết. Chỉ là cử chỉ bồn chồn của người phụ nữ với chiếc nhẫn của mình.
“Nó sẽ hoạt động như thế nào? Ý em là nếu chúng ta có tiền. Cần những thủ tục gì?”
“Em chỉ việc gửi tiền tới công ty bảo hiểm ở New Orleans. Họ sẽ ghi nhận khoản thanh toán vào hợp đồng.”
“Và sau đó hợp đồng lại có hiệu lực?”
“Hợp đồng lại có hiệu lực,” anh nói có phần bực bội, khó chịu trước sự đeo bám dai dẳng của cô.
Tất nhiên anh đoán được mối quan tâm đột xuất của cô là do đâu. Cô đang ấp ủ hi vọng rằng họ có thể tìm cách nào đó xoay được tiền để nộp.
“Em có thể xem nó không?” Cô ngọt ngào hỏi.
“Bây giờ ư? Nó ở đâu đó trên gác, trong đám giấy tờ cũ của anh. Nhưng anh báo trước là nó vô giá trị; việc nộp tiền đã không được duy trì.”
Cô không truy hỏi anh thêm nữa. Cô ngồi mân mê chiếc nhẫn, xoay qua xoay lại, khiến nó lóe lên những tia rực rỡ dưới ánh đèn.
Cô không đòi anh cho xem hay hỏi han về nó nữa, nhưng nghe cô nhắc vậy anh cũng bắt đầu đi tìm. Không phải tìm ngay, mà hai, ba ngày sau.
Anh không tìm thấy nó. Đầu tiên anh tìm ở chỗ anh nghĩ mình đã cất nó, và nó không có đó. Rồi anh tìm chỗ khác, cũng không thấy nó ở bất cứ chỗ nào anh tìm.
Chắc là nó đã thất lạc giữa những lần chuyển chỗ ở vội vã, trong quá trình đóng gói và dỡ đồ. Hoặc nó sẽ xuất hiện ở nơi bất ngò nào đó anh chưa nghĩ tới.
Cuối cùng anh bỏ cuộc, không lăn tăn nhiều lắm, chỉ với cái nhún vai. Bởi nó vô giá trị và không thể mượn được tiền để đắp vào (điều mà anh nghĩ là động cơ đằng sau vụ hỏi han của cô), dù sao thì nó không phải là mất mát lớn.
Anh cũng không kể với cô rằng anh không tìm thấy nó. Không cần kể vì xem chừng cô đã quên đi hứng thú với nó, khi cô ngồi đối diện anh bên kia bàn, lơ đãng vuốt ve và ngắm nhìn đôi tay không mang nhẫn.
Trong vòng một tuần, người phụ nữ nấu ăn và dọn dẹp (hai trong một) mà họ vẫn thuê, đột nhiên biến mất, và chỉ còn hai người trong ngôi nhà.
Anh hỏi cô chuyện này sau hai ngày liên tiếp vắng bóng chị ta, sau khi chỉ thấy chị ta hùng hổ ra về. “Có chuyện gì với Amelia thế?”
“Em cho chị ta nghỉ hôm thứ Ba rồi,” cô nói gọn lỏn.
“Nhưng anh tưởng chúng ta còn nợ chị ta ba hay bốn tuần lương. Làm thế nào em trả được?”
“Em không trả.”
“Vậy mà chị ta vẫn đồng ý đi ư?”
“Chị ta không có sự lựa chọn, em đã bắt chị ta nghỉ. Chị ta sẽ có lương khi nào chúng ta có tiền, chị ta biết thế.”
“Em không định thuê người khác à?”
“Không, em có thể xoay xở được,” rồi cô lầm bầm thêm câu gì đó anh không nghe rõ.
“Gì cơ?” Anh hỏi trong sự ngạc nhiên bất ngờ. Anh nghĩ cô đã nói, “trong khoảng thời gian ngắn này.”
“Em nói trong khoảng thời gian ngắn,” cô lặp lại một cách khôn khéo.
Và cô đã xoay xở tốt hơn nhiều so với hồi ở Mobile, khi lần đầu tiên cô thử sức quản lí nhà cửa, và anh đã phải đưa cô về khách sạn để dùng bữa.
Vì một lẽ, cô chuyên tâm hơn hẳn những ngày vô tư lự trước kia, những nỗ lực bớt đi sự nông nổi và tăng thêm phân quyết tâm. Có lẽ ít hơn tiếng cười trong công việc, nhưng kết quả ít thảm họa hơn. Giờ cô không còn là cô dâu trẻ con chơi trò nấu ăn dọn dẹp; cô là một phụ nữ mong muốn đạt được những kĩ năng mới, và không ngại vất vả.
Hai ngày liền cô nấu cơm, rửa bát, vung cây chổi lên xuống cầu thang. Rồi đến đêm thứ hai trong thời gian học việc…
Anh nghe thấy tiếng hét thất thanh của cô dưới bếp, và tiếng đĩa rơi vỡ khi nó tuột khỏi tay cô. Cô đã vào đó để rửa bát sau bữa ăn, còn anh ở lại đọc báo. Ngay cả người đàn ông đắm đuối nhất cũng không đề nghị lau bát đĩa cho người phụ nữ, đó là truyền thống ngàn đời nay.
Anh vứt tờ báo xuống và lao vào bếp. Cô đang đứng trước bồn rửa. “Làm sao thế, em bị bỏng à?”
Cô giơ tay chỉ, kinh hãi.
“Con chuột,” cô nghẹn ngào. “Em đang đứng thì nó chạy vào giữa hai chân em để vào trong kia.” Rồi cô nhăn mặt rùng mình, “Ôi nó to lắm, nhìn ghê lắm!”
Anh lấy cái que cời lò và bắt đầu chọc vào khe nứt giữa tường và sàn mà cô chỉ. Nó bị dội lại. Không có cái hốc nào. Có vẻ nó chỉ là một cái khe nông ăn vào lớp vữa.
“Nó không thể chui vào trong đó được…”
Sự sợ hãi của cô chuyển thành tức giận. “Anh coi em là kẻ nói dối à? Nó phải cắn em máu chảy đầm đìa thì anh mới tin sao?”
Anh phủ phục xuống sàn và bắt đầu đào bới bằng thanh cời lò, thực ra là đang khoét một cái lỗ nếu chưa từng có cái lỗ nào ở đó.
Cô nhìn một lúc, rồi lạnh lùng hỏi, “Anh đang định làm gì thế?”
“Sao cơ? Thì giết nó,” anh thở hổn hển.
“Đấy không phải cách để thoát khỏi chúng!” Bàn chân cô giậm xuống sàn vẻ sốt ruột. “Anh giết một con, nhưng vẫn còn cả tá.”
Cô giật tạp dề ra, bước ra khỏi bếp, lên trên nhà. Cảm thấy cô có ý đồ nào đó mà anh không đoán ra, nhưng không khỏi lo lắng, lát sau anh đặt thanh cời lò xuống, loay hoay đứng dậy và đi theo cô. Anh thấy cô trong sảnh, đã đội mũ và choàng khăn, trước sự ngỡ ngàng của anh, chuẩn bị ra ngoài.
“Em đi đâu?”
“Vì anh không biết cách, nên em sẽ ra hiệu thuốc bảo họ cho em thứ gì đó tiêu diệt chúng,” cô đốp chát.
“Bây giờ sao? Vào tầm này ư? Đã hơn 9 giờ, họ đã đóng cửa từ lâu.”
“Bên kia thành phố, có một hiệu thuốc mở cửa đến 10 giờ, anh và em đều biết.” Rồi cô gắt gỏng nói thêm, như thể cách nào đó mà tại anh nên chúng mới xuất hiện, “em sẽ không quay vào đó và chịu cái nguy cơ bị tấn công đâu. Chúng sẽ còn leo lên giường khi chúng ta đang ngủ!”
“Được rồi, để anh đi,” anh vội vàng đề nghị. “Em không nên đi vào giờ này.”
Cô dịu xuống phần nào. Cô tháo khăn ra, mặc dù vẫn hơi cau có vì anh đã không thực hiện nhiệm vụ sớm hơn. Cô tiễn anh ra cửa.
“Đừng vào trong đó,” anh cảnh báo. “Cho đến khi anh quay về.”
“Có cho vàng em cũng không dám,” cô cam đoan với vẻ sợ hãi.
Cô đóng cửa lại sau lưng anh.
Cửa lại mở ra ngay sau đó.
“Đừng cho ông ta biết danh tính chúng ta, dùng nó cho ngôi nhà nào,” cô hạ giọng căn dặn. “Em không muốn hàng xóm biết nhà mình có chuột. Em sẽ bị chỉ trích là một bà chủ nhà không sạch sẽ…”
Anh bật cười trước sự lo lắng rất ư đàn bà này, nhưng anh hứa sẽ không nói và bước đi.
Khi trở về anh thấy cô đã quay lại với công việc trong bếp, bất chấp lời anh nhắc nhở và nỗi sợ hãi của cô; một sự can đảm tận tâm mà anh không khỏi khâm phục. Tuy nhiên cô đã cẩn thận mang theo cây đèn bàn và đặt nó dưới chân, như một sự phòng vệ bằng ánh sáng.
“Từ lúc anh đi em có thấy nó lần nào nữa không?”
“Em nghĩ đã trông thấy nó quay lại cái lỗ, em liền chọi cho hòn đá, và nó không ló ra nữa.”
Anh chìa ra thứ mà người bán thuốc đã đưa cho mình. “Cái này dùng để rải quanh các hang của nó và những ngóc ngách.”
“Ông ta có hỏi gì không?” Cô hỏi không phù hợp cho lắm.
“Không, ông ta chỉ muốn biết quanh nhà chúng ta có trẻ con không.”
“Ông ta không hỏi là nhà nào sao?”
“Không. Ông ấy khá già, lẫn cẫn, và nóng lòng muốn thoát khỏi anh để đóng cửa.”
Cô thò tay ra.
“Không, đừng động vào nó. Để anh làm cho.”
Anh cởi áo khoác, xắn tay áo sơ mi, ngồi xổm xuống trước cái lỗ mắc dịch, rắc một ít bột xung quanh. “Còn chỗ nào nữa không?”
“Có một cái đằng kia, ngay sau lò than.”
Cô quan sát với dáng vẻ của bà nội trợ.
“Vậy là được. Không quá nhiều, không thì chân chúng ta sẽ tha nó đi khắp nơi mất.”
“Sau hai, ba ngày phải rải lại một lần,” anh bảo cô.
Xong xuôi anh cất nó lên giá, nơi để những lọ gia vị, nhưng đặt riêng ra một góc.
“Anh nhớ rửa tay sạch sẽ đấy,” cô cảnh báo. Anh vốn định bỏ qua việc đó, cho đến khi cô nhắc. Cô đưa khăn cho anh lau lúc rửa tay xong.
Đêm hôm sau trận ốm của anh thực sự bắt đầu. Cô phát hiện ra trước tiên.
Anh thấy cô nhìn anh chăm chú khi anh gập quyển sách lại chuẩn bị đi nghỉ. Đó là sự quan sát kĩ lưỡng, không rời. Có vẻ nó đã diễn ra một lúc lâu trước khi anh nhận ra.
“Gì thế?” Anh vui vẻ hỏi.
“Louis.” Cô ngập ngừng. “Anh có chắc là dạo này anh vẫn khỏe không? Em thấy anh không được ổn. Em không thích cách anh…”
“Anh ư?” Anh thốt lên ngạc nhiên. “Đâu, anh đang khỏe mạnh hơn bao giờ hết!”
Cô giơ tay ngắt lời anh. “Có thể là thế, nhưng vẻ ngoài của anh không nói lên điều đó. Gần đây em thấy anh hay mệt mỏi bơ phờ. Trước giờ em không đả động vì không muốn làm anh lo lắng, nhưng giờ đây em luôn canh cánh ý nghĩ ấy. Nó rất rõ ràng, em nhìn là biết ngay.”
“Vớ vẩn,” anh cười cười.
“Em có một phương thuốc rất hiệu nghiệm, nếu anh đồng ý dùng. Em sẽ dùng thử nó với anh, cho có động lực.”
“Gì cơ?” Anh thích thú hỏi.
Cô bật dậy. “Bắt đầu từ đêm nay, chúng ta sẽ uống một cốc rượu nóng đánh trứng trước khi đi ngủ. Họ cam đoan với em đó là liều thuốc bổ tăng cường sức khỏe.”
“Anh đâu phải người bệnh…,” anh cố phản đối.
“Thực hiện ngay, không nhiều lời nữa, thưa ngài!” Cô hân hoan ra lệnh. “Em đi chuẩn bị ngay đây, còn anh không được cản trở. Em có đủ các thành phần cần thiết rồi. Trứng gà tươi, mười hai xu một tá, loại tốt nhất! Rượu Brandy cũng có sẵn trong nhà.”
Anh ngạc nhiên nhưng vẫn mỉm cười khoan dung, và chiều theo ý cô. Đây là vai diễn mới đối với cô; làm bảo mẫu cho một chứng bệnh không tồn tại. Nếu nó làm cô vui, thì có hại gì đâu?
Giờ đây tâm trạng cô hòa nhã vui tươi, tràn ngập dịu dàng và hối lỗi. Cô còn cúi xuống hôn vào đỉnh đầu anh khi đi qua.
“Hôm trước em đã cáu gắt với anh phải không? Tha thứ cho em nhé, Lou. Anh biết em không cố ý mà. Một sự hoảng sợ như thế có thể biến người ta thành một mụ già cay nghiệt…” Cô đi về phía căn bếp, gửi lại nụ cười cho anh.
Anh nghe thấy tiếng đập trứng của cô vọng ra qua cánh cửa mở, và anh nheo mắt hài lòng với bản thân.
Sau đó cô bắt đầu ngâm nga khe khẽ trong lúc lăng xăng trong bếp, cô đang hớn hở với nhiệm vụ tự đặt ra cho mình.
Rồi những câu ngâm nga trở thành một bài hát đầy đủ.
Anh chưa bao giờ nghe thấy cô hát. Niềm vui của cô luôn biểu hiện bằng tiếng cười. Giọng cô nhẹ nhưng rõ ràng. Không quá trữ tình, mà đanh lạnh mới là từ hiện lên trong đầu anh, nhưng cô hát đúng giọng một cách khéo léo.
Chỉ là một bài hát lúc hoàng hôn
Khi ánh sáng tắt dần…
Bỗng nhiên bài hát ngưng bặt, như thể việc cô đang làm đòi hỏi sự tập trung cao độ. Có lẽ là đo lượng rượu. Và từ đó về sau nó không vang lên lần nào nữa.
Cô bước vào, hai tay cầm hai chiếc cốc đựng thứ chất lỏng màu vàng nhạt, sánh như kem trên bề mặt.
“Đây rồi. Một cốc cho anh, một cốc cho em.” Cô chìa cả hai cái cốc ra. “Anh lấy một cốc đi.” Sau khi anh đã lấy, cô nếm thử cốc còn lại trên tay. “Hi vọng em không cho quá nhiều đường. Nhiều quá sẽ có hại. Em thử cốc của anh được không?”
“Được.”
Cô lấy lại chiếc cốc của anh, nhấp một ngụm. Nó để lại một vệt trắng ở bờ môi trên của cô.
Đang đứng cầm hai chiếc cốc, cô chợt ngoái đầu về cửa bếp.
“Cái gì thế?”
“Gì cơ? Anh không nghe thấy gì cả.”
Cô đi xem xét một lúc rồi trở lại.
“Hình như em nghe thấy tiếng động trong đó. Em muốn đảm bảo mình đã chốt cửa.”
Cô đưa trả anh chiếc cốc anh chọn lúc đầu, và là cốc mà cô đã uống thử.
“Vì nó có rượu Brandy, chúng ta nên cụng ly chứ nhỉ.” Cô chạm cốc mình vào cốc của anh. “Vì sức khỏe của anh.”
Cô uống cạn cốc của mình.
Anh uống một hơi dài. Anh thấy nó khá êm và dễ chịu. Thứ chất lỏng mà cô đã pha rất hào phóng ấy, sau khi đi vào dạ dày một lúc, liền tạo nên cảm giác ấm áp ngọt dịu.
“Giá mà mọi thứ thuốc đều ngon như thế này nhỉ?” Cô nhận xét.
“Thật sảng khoái,” anh công nhận, muốn làm vui lòng cô là chính chứ anh chẳng thấy có công dụng gì trong đó. Xét cho cùng, theo ý anh, nó chỉ là loại đồ uống pha tạp, chẳng ra rượu cũng chẳng phải thuốc.
“Anh phải uống hết, như thế mới có tác dụng,” cô dịu dàng hối thúc. “Anh xem, em uống hết rồi.”
Để đáp lại công lao chuẩn bị của cô, anh uống hết.
Xong anh chép miệng vẻ ngờ vực. “Nó có bột phấn hay sao ấy. Hơi khé cổ, lợn cợn.”
Cô lấy chiếc cốc từ tay anh. “Đó là vì anh không quen uống sữa. Anh thấy miệng em bé sau khi bú bao giờ chưa, dính đầy váng sữa.”
“Chưa,” anh cam đoan với vẻ nghiêm nghị chế giễu, “em chưa cho anh niềm vui ấy.”
Họ cùng bật cười, trong sự thân thiết vô cùng gần gũi.
“Em sẽ đi rửa cốc,” cô nói. “Rồi chúng ta có thể lên gác.”
Ban đầu anh ngủ ngon, cuối cùng cũng cảm thấy sự ấm áp khoan khoái của liều thuốc trong dạ dày. Mặc dù có vẻ nó chỉ giới hạn ở đó, không lan tỏa như đối với rượu nguyên chất. Nhưng rồi một, hai tiếng sau anh thức dậy trong quằn quại. Sự ấm áp không còn dễ chịu, mà đã biến thành cơn nung đốt nhức nhối. Giấc ngủ, khi đã bỏ đi, không thể đến gần anh nữa, bị chặn lại bởi thanh kiếm rực lửa khua loang loáng trong bụng anh.
Phần còn lại của đêm đó là sự đau đớn, như Chúa bị đóng đinh. Hơn một lần anh gọi cô, nhưng cô không ở đủ gần để nghe thấy. Bất lực và bị chia cắt khỏi cô, rốt cuộc anh phải cắn răng vào môi giữ im lặng. Sáng hôm sau, xuất hiện vệt máu khô chảy xuống cằm anh.
Ở góc xa tít tắp bên kia phòng là chiếc ghế treo quần áo, mặt và lưng ghế bọc vải nhung lông màu mơ chín. Trước nay nó chẳng có gì đáng chú ý, nhưng giờ thì sừng sững như một biểu tượng.
Nó nằm cách xa nhiều dặm, và anh khao khát phóng tầm mắt qua đó, một khoảng cách mênh mông giữa ốm yếu và khỏe mạnh, giữa bất lực và có khả năng, giữa cái chết và sự sống.
Bao nhiêu dặm đường để sang phía bên kia căn phòng.
Anh phải đến được chiếc ghế đó. Dù xa nhưng kiểu gì anh cũng phải đến đó. Anh nhìn nó chằm chằm, da diết, đến mức phần còn lại của căn phòng nhòa đi, những vòng tròn đồng tâm thu hẹp dần của thị lực dường như chỉ tập trung vào cái ghế đó, nó nằm giữa quầng sáng, như một tâm điểm, còn tất cả những thứ khác chỉ là màn sương mờ mịt.
Không thể cho chân xuống giường để đứng lên, nên anh phải dùng đầu và vai để rời khỏi nó, trong một cú ngã huỵch xiên chéo. Sau đó đến cú rơi thứ hai của hông và đôi chân, lần này nhẹ hơn.
Giờ anh bắt đầu lết trên sàn, như một con giun hay con sâu bướm đang bò, cằm tì vào sàn ở mỗi chuyển động, hơi thở nóng rực làm lay động lớp tuyết thảm trước mặt, như một làn sóng tỏa ra từ mặt anh. Có điều những con giun và sâu bướm không có ước mong ấy, không có trái tim đủ lớn để chiến đấu vì nó.
Chậm chạp, anh vượt qua từng mẫu hoa văn. Mỗi cái giống như một hòn đảo. Và cái nền màu trơn ở giữa giống như một con kênh hay miệng vực, rộng mấy hải lý chứ không phải mấy inch. Người thợ dệt ở nơi nào đó, nhiều năm trước, ắt chẳng thể ngờ những khoảng trống đó sẽ được đo đếm bằng những giọt mồ hôi, cơn đau dữ dội và những giọt nước mắt chịu đựng ngoan cường của một người đàn ông.
Anh đang đến gần hơn. Chiếc ghế không còn là cả một chiếc ghế; phần trên của nó giờ ở rất cao trên đầu. Trong tầm mắt ngang mặt sàn của anh chỉ hiện ra bốn chân của chiếc ghế, một đôi giày dưới gầm của nó, và một phần mặt ghế. Phần còn lại chìm trong những lớp sương mù trên cao.
Rồi mặt ghế cũng chìm khuất, chỉ còn lại bốn cái chân, anh đang đến rất gần. Có lẽ đủ gần để với tay chạm vào, nếu anh vươn dài tay ra phía trước.
Anh thử, và nó rơi phịch xuống. Giữa những đầu ngón tay duỗi căng của anh và cái chân ghế anh nhắm đến cách không quá sáu inch, quá nhỏ để vượt qua.
Anh quằn quại, uốn éo. Anh nhích được một inch. Mép mẫu hoa văn cho anh biết điều đó. Nhưng cái ghế, cười cợt, trêu ngươi anh, không biết bằng cách nào lại rụt khỏi anh một inch. Nó vẫn cách sáu inch. Anh nhích một inch ở đầu này, nó thụt lùi một inch ở đầu kia.
Anh nhích một inch nữa. Cái ghế lại không cho anh đến gần nó, giữ nguyên khoảng cách cũ.
Điều này thật điên rồ, là ảo giác. Nó đã bắt đầu cười nhạo anh, mà những cái ghế thì không cười.
Anh duỗi căng hết cỡ cánh tay, từ đầu ngón tay cho đến khớp bả vai. Anh đem cả tính mạng ra giành giật sáu inch ấy. Lần này nó giật bắn về phía sau. Và có thêm sáu inch nữa, sáu inch mới, nằm giữa họ.
Qua hàng nước mắt nhòe nhoẹt, cuối cùng anh nhìn ra đã có nhiều hơn một đôi giày. Bốn chiếc thay vì hai. Đôi giày của anh dưới gầm ghế, và đôi giày của cô mới hiện ra bên cạnh. Hẳn cô đã mở cửa rất rón rén nên anh không nghe thấy.
Cô đang đứng bên cạnh, cúi nhìn anh. Một tay túm những nếp váy để chúng không tố giác sự có mặt của cô cho đến phút cuối cùng. Tay kia đặt ở lưng ghế, đã lẳng lặng giữ nó cách xa anh, mỗi lần anh nghĩ mình đã chạm đến nó.
Trò đùa hẳn là thú vị. Tiếng cười của cô bung ra, giòn giã, không thể kìm nén, phía trên đầu anh. Rồi cô ráng nín lại, ít ra là vì khuôn phép.
“Anh cần gì, quần áo của anh à? Sao anh không bảo em?” Cô trêu chọc. “Có thể anh không còn giá trị với chúng nữa. Anh đang ốm.”
Và lần này cô kéo hẳn cái ghế vào sát tường, trước đôi mắt tuyệt vọng của anh, cách một đến hai mét, vô phương đến được.
Nhưng chiếc quần vắt trên ghế không hiểu vì sao lại rơi xuống, tử tế rơi vào bàn tay vươn ra của anh và để cho mình bị túm gọn.
Cô cúi xuống lấy nó khỏi tay anh, một cuộc giằng co ngắn ngủi không cân sức diễn ra giữa hai người.
“Nó không tốt cho anh đâu, anh yêu,” cô nói với vẻ thích thú người ta thường dùng với một đứa trẻ ngang ngạnh. “Thôi nào, thả tay ra. Anh có thể làm gì với nó nào?”
Cô lôi nó ra từng chút, cuối cùng giật nó khỏi những ngón tay níu giữ quyết liệt của anh.
Cuối cùng khi đưa anh trở lại giường, cô nở nụ cười ngọt ngào, vô hại, đầy quan tâm, nhưng sao nó như dấu sắt nung bỏng giãy, và cánh cửa đóng lại sau lưng cô.
Chiếc ghế gỗ mun bọc đệm màu mơ chín nằm trong vòng sáng bên kia phòng đã vĩnh viễn lùi xa.