← Quay lại trang sách

Chương 63

Ngày hôm đó, cô trở lại ngồi bên anh, bình thản và ăn vận lộng lẫy, đẹp như một bức tranh, một nàng tiên thực sự, dỗ dành an ủi, chăm lo cho tất cả những mong muốn của anh. Trừ một mong muốn. “Tội nghiệp Lou, anh khó chịu lắm phải không?” Anh kiên quyết không chịu thừa nhận. “Anh sẽ ổn thôi,” anh hổn hển. “Đời anh chưa bao giờ bị ốm một ngày. Rồi nó sẽ qua.”

Cô kín đáo cụp mắt xuống, thở dài trong sự tán thành an ủi. “Đúng, nó sẽ sớm qua thôi,” cô nhẹ nhàng đồng ý.

Hình ảnh một con mèo mãn nguyện vì vừa có được đĩa sữa lướt qua trong dầu anh, thật khó lí giải; rồi lại biến mất vào vùng quên lãng nơi nó xuất hiện.

Cô dùng bàn tay quạt cho anh. Cô đem vào một cái chậu, và nhúng ướt khăn lau vầng trán hầm hập và lồng ngực phập phồng của anh, những cái miết nhẹ hơn cánh bướm.

“Anh có muốn uống một tách trà không?”

Anh ngoặt đầu sang bên, vẻ chán ghét.

“Anh có muốn em đọc sách cho anh nghe không? Biết đâu nó giúp anh quên đi đau đớn.”

Cô xuống dưới nhà đem lên một tập thơ, và bằng âm điệu du dương êm ái, đọc cho anh một bài thơ của Keats.

Chàng lo lắng điều gì, người hiệp sĩ

Mà xanh xao tiều tụy nhường kia?

Cô dừng lại, thắc mắc, “ La belle dame sans merci nghĩa là gì vậy? Nghe thì hay nhưng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tất cả các bài thơ đều như thế à?”

Anh đưa tay bịt chặt hai tai, khổ sở.

“Dừng lại đi,” anh năn nỉ. “Xin em, anh không chịu nổi nữa.”

Cô gập sách lại, tỏ ra ngỡ ngàng. “Em chỉ muốn giải khuây cho anh thôi mà.”

Khi nước cũng không đủ thỏa mãn cơn khát cồn cào càng lúc càng tăng của anh, cô liền ra ngoài và cất công đến tận hàng cá đem về một xô đá vụn, đưa cho anh từng viên để nhai lạo xạo giữa hai hàm răng.

Cô chăm lo cho tất cả những mong muốn của anh. Trừ một mong muốn.

“Gọi bác sĩ đi,” anh cầu khẩn cô. “Anh không thể tự chống chọi với chuyện này. Anh phải được giúp đỡ.”

Cô ngồi nguyên tại chỗ. “Chúng ta không đợi thêm một ngày nữa được sao? Đây có phải là Lou can đảm của em không vậy? Có lẽ ngày mai anh sẽ phục hồi nhanh đến độ…”

Anh cào vào áo váy cô trong sự van xin câm lặng, cho đến khi cô hơi lùi lại để tránh cho chúng khỏi nhàu nát. Gương mặt anh đầm đìa những vệt nước mắt. “Ngày mai thì anh chết mất. Ôi, Bonny, anh không thể đối mặt với đêm nay. Ngọn lửa trong người anh - nếu em yêu anh, nếu em yêu anh… hãy gọi bác sĩ.”

Rốt cuộc cô đi. Cô rời khỏi phòng chừng nửa tiếng rồi quay về, vẫn đội mũ, quàng khăn, và bắt đầu tháo chúng ra. Chỉ có mỗi mình cô.

“Em không…?” Anh đã hơi lả đi.

“Ông ta không thể đến trước ngày mai. Ông ta không đi ngay được. Em mô tả triệu chứng của anh cho ông ta. Ông ta nói nó không có gì nguy hiểm. Đó là một dạng… đau bụng, và nó sẽ tự hết. Ông ta hướng dẫn chúng ta những việc cần làm cho đến khi ông ta tới… Thôi nào, cứ bình tĩnh…”

Đôi mắt anh chiếu vào cô, sáng rực vì cơn sốt và nỗi tuyệt vọng.

Cuối cùng anh thì thào, “Anh không nghe thấy tiếng đóng cửa khi em đi.”

Cô liếc anh rất nhanh, nhưng câu trả lời của cô trôi chảy.

“Em để hé cửa, để lúc về đỡ đỡ mất công mở. Xét cho cùng đã có anh ở nhà, chắc chắn…” Rồi cô nói, “anh thấy vừa rồi em còn đội mũ đó thôi?”

Anh không nói gì nữa. Tâm trí tan hoang của anh chỉ có thể lặp đi lặp lại:

Mình đã không nghe thấy tiếng đóng cửa khi cô ấy đi.

Và rồi rốt cuộc, tuy rằng chậm chạp, nhưng anh đã hiểu ra.

Lại một bình minh nữa, bình minh thứ hai từ khi chuyện này bắt đầu, nó len qua cửa sổ, và làm dậy lên luồng sức mạnh căng thẳng. Thứ sức mạnh đã được chắt chiu, tích lũy từng giọt cho kết quả thiết yếu với anh lúc này. Nó không phải là sức mạnh vốn có của cơ thể; nó là sức mạnh tinh thần. Ý chí muốn sống, để được cứu; tự cung tự cấp dưỡng khí để hít thở duy trì sự sống. Một khi nó hết thì không cách gì thay thế.

Cho dù chỉ có mi mắt anh cử động, để bắt đầu cuộc hành trình. Một hành trình dài.

Trong một lúc anh cứ để cơ thể nằm yên. Nhúc nhích quá sớm sẽ chỉ bị phát hiện và quấy rầy mà thôi.

Đó, bước chân cô đã vang lên trong hành lang, cô đang ra khỏi phòng mình. Mi mắt anh cụp xuống, che đôi mắt.

Cửa mở và anh biết cô đang nhìn anh. Mặt anh chực co rúm lại, nhưng anh bắt nó ở yên.

Một ánh nhìn thật dài. Cô có định thôi nhìn không vậy? Cô đang nghĩ gì? “Sao anh lâu chết thế?” Hay, “Tình yêu của em, hôm nay anh không đỡ hơn chút nào sao?” Ý nghĩ nào là thật, đâu là con người thật của cô, đâu mới là mơ tưởng sai lầm của anh về cô?

Cô đã bước vào phòng. Cô đang đến gần anh.

Giờ thì cô đang cúi xuống anh, trong sự quan sát chăm chú. Anh cảm nhận được hơi thở âm ấm của cô. Anh ngửi thấy mùi nước hoa violet cô mới xịt lên người và vẫn chưa khô hẳn. Trên hết, anh có thể cảm thấy đôi mắt cô gần như đang đốt cháy da anh như một cặp kính được giữ phía trên những vỏ bào, khiến chúng sém lại, bốc khói rồi cuối cùng cháy bùng lên. Sự tập trung của đôi mắt cũng y như vậy.

Anh không được nhúc nhích, không được nháy mắt.

Một sức nặng bỗng đè xuống tim anh và gần như khiến nó ngừng đập. Đó là bàn tay cô đặt lên, để tìm hiểu xem nó còn đập không. Nó run rẩy như một con chim bị giam dưới bàn tay xòe rộng của cô, và nếu như cô nhận thấy, hẳn cô cho rằng nó đã hoạt động quá sức đến thất thường và chập choạng. Bàn tay cô đột nhiên rời đi và anh cảm thấy những ngón tay cô tìm đến mắt anh, chắc là dò xét phản ứng của nó. Chúng cho anh biết hướng đi của chúng, vì chúng lướt qua chỗ da ngay bên dưới mắt, rất nhanh. Anh đảo đồng tử lên trên trong hốc mắt, và lát sau khi cô nâng một mí mắt lên nhìn vào, chỉ thấy toàn lòng trắng.

Tiếp đó cô cầm tay anh và giữ thẳng, từ khuỷu tay trở ra, ngón tay cái của cô ấn vào cổ tay. Cô đang tìm mạch đập của anh.

Cô đặt tay anh về chỗ cũ. Và mặc dù cô không thả hay quăng nó xuống, tuy nhiên không hiểu sao anh thấy rõ trong cử chỉ ấy có một nỗi thất vọng, như thể phiền lòng vì anh vẫn còn sống, bất kể cô đã dùng các biện pháp kiểm tra.

Váy áo cô sột soạt khi lùi ra, tạm biệt anh bằng một làn gió nhẹ. Một lát sau cửa đóng lại và cô rời khỏi phòng. Cầu thang gỗ dội lại tiếng cô đi xuống, như thể những khớp ngón tay cô gõ nhẹ lên lan can theo bước chân.

Giờ thì hành trình trở lại với cuộc sống bắt đầu.

Được trợ giúp bởi năng lượng tích trữ, giai đoạn đầu diễn ra thuận lợi. Anh lật chăn, đẩy người xiên chéo tới đầu giường, cho đến khi nó rơi phịch xuống qua bên kia.

Giờ anh nằm dài dưới sàn cạnh giường, anh buộc phải nhỏm dậy.

Anh nghỉ một chút. Những cơn đau dữ dội bập bùng như lưỡi lửa của khúc gỗ cháy lom rom liếm vào thành dạ dày, tấn công anh, khiến luồng hơi thở của anh rít lên như ống khói, rồi lại lắng xuống thành cơn đau mê mệt tê dại vốn luôn đồng hành cùng anh và ít ra còn chịu đựng được.

Lúc này anh đã đứng lên, vịn thành giường đi xuống dưới chân giường. Từ nơi đó đến chiếc ghế là một khoảng trống, không có gì hỗ trợ. Anh buông thanh giằng giường ra bằng cú quăng mình về đằng sau, lao vào khoảng trống. Anh đi hai bước êm xuôi, lảo đảo. Hai bước nữa, bước thứ ba, anh bước vội và sắp ngã đến nơi. Nhưng nếu anh có thể đến chỗ chiếc ghế trước… Anh chạy đua với cú ngã, và chiếc ghế đã thắng. Anh đã đến nơi, ghì chặt chiếc ghế, khiến nó lắc lư; nhưng anh vẫn đứng vững.

Anh mặc áo khoác, cài cúc mà không có áo sơ mi bên trong. Việc đó tương đối dễ dàng. Đến cái quần cũng vậy. Anh xoay xở bằng cách ngồi xuống ghế và xỏ từng ống từ dưới sàn. Nhưng đôi giày là một khó khăn gần như không thể vượt qua. Cúi xuống theo cách thông thường là một việc bất khả; cả chiều dài thân hình anh sẽ phải gập lại đau đớn.

Trước tiên anh dùng bàn chân điều chỉnh chúng sao cho chúng nằm ngay ngắn cạnh nhau, rồi lần lượt xỏ từng bàn chân vào cổ giày, và lần lần luồn vào trong. Nhưng chúng mở hoác, và anh không thể nào bước đi với chúng mà không chịu nguy cơ chiếc giày bị văng ra ở bước tiếp theo.

Anh nằm nghiêng xuống sàn, vắt tréo hai chân, co một bàn chân lên cho đến khi hai tay anh nắm được. Có năm cái cúc ở mỗi chiếc giày, nhưng anh chỉ chọn cái trên cùng, dễ tiếp cận nhất, và ấn nó qua lỗ khuyết. Rồi đổi chân bên kia, lặp lại động tác.

Anh đứng lên. Giờ chỉ cần đi nốt đoạn đường còn lại. “Chỉ cần,” anh nói thành tiếng chữ ấy với sự mỉa mai khao khát.

Như một người mộng du, bước giật cục; hoặc như một thủy thủ đi qua boong tàu nghiêng ngả trong bão, anh đi từ ghế tới cửa phòng, và gục vào khung cửa một lúc. Sau đó nhẹ nhàng nắm lấy núm cửa, xoay rồi giữ yên nó, để nó không kêu lách lách khi bật lại.

Cửa mở. Anh bước qua.

Một cửa sổ hình oval trổ vào giữa bức tường bên kia hành lang, lấy ánh sáng cho cầu thang và để ngắm cảnh. Một tấm rèm lưới giăng ngang ô kính.

Anh lê tới đó, tì khuỷu tay vào tường, kề mắt vào nó, thèm thuồng nhìn ra cuộc sống bên ngoài. Tấm rèm áp sát mắt tạo thành một màng lọc. Nó chia cắt phong cảnh bên ngoài thành những ô vuông nhỏ, ngăn cách bởi những khung sọc nổi là những đường ren của rèm, bị phóng to trước khoảng cách hẹp như thế.

Một ô vuông chứa một đoạn của lối đi trước nhà phía dưới, không gì khác; tất cả là màu xám đen. Ô phía trên vẫn là lối đi, nhưng ở khoảng cách xa hơn. Một hình tam giác đất trồng cỏ bên rìa bắt đầu cắt vào phía trên nó, màu xanh xanh. Ô trên nữa, cỏ và lối đi chiếm hai phần bằng nhau, với cái đế sơn trắng của một trụ cổng bắt đầu xen vào góc phía trên. Và cứ như vậy, những mảnh rời rạc như trêu ngươi nối tiếp nhau; nhưng không bao giờ có một bức tranh hoàn chỉnh.

Tôi muốn sống một lần nữa, trái tim anh van nài. Tôi muốn sống một lần nữa ở ngoài kia.

Anh quay lại, nhúc nhắc cái cơ thể thoi thóp, cái cơ thể vốn dĩ nhanh nhẹn hơn đã bị dìm xuống đáy; trước mặt anh là cầu thang, hút xuống như miệng vực, một vách đá san sát. Sự can đảm của anh thoáng lung lay, vì anh biết cái giá để vượt qua nó. Và ngay sau đó, tiếng cót két văng vẳng từ chiếc ghế của cô ở dưới bếp càng làm anh mất tinh thần.

Nhưng anh chỉ có thể tiến tới. Quay lại là chết, chết trên giường.

Anh lần ra mép cầu thang, đưa mắt ngó xuống, hàng dặm dốc đứng đổ xuống chân nó. Cơn chóng mặt tấn công anh, nhưng anh trụ vững một cách quyết liệt, ghì chặt hai tay vào trụ cầu thang, như thể nó là cái cọc cứu mạng.

Anh biết mình sẽ không thể đi xuống một cách bình thường. Anh sẽ mất thăng bằng, ngã chúc đầu xuống vì hoàn toàn thiếu sự nâng đỡ của đôi chân. Vì thế trước tiên anh chùng thấp người. Anh ngồi xuống bậc thang trên cùng, hai chân đặt ở bậc thứ hai. Anh thả chân xuống bậc thứ ba, rồi hạ mông xuống bậc thứ hai, như một đứa bé chưa biết đi.

Càng đi xuống anh càng đến gần cô hơn. Vì cô ở ngay dưới nhà.

Giờ anh đã nghe thấy tiếng cô ở rất gần. Những việc cô đang làm gần như hiện rõ trước mắt anh, chỉ qua âm thanh của chúng.

Tiếng lanh canh liên tục, kết thúc bằng tiếng gõ vào miệng tách: tức là cô đang khuấy đường trong tách cà phê.

Tiếng cọt kẹt của khung ghế: nghĩa là cô đang vươn người ra trước để uống cà phê..

Tiếng cọt kẹt thứ hai: nghĩa là cô đang ngả ra sau khi đã nhấp xong ngụm đầu tiên.

Anh nghe tiếng vỏ bánh mì kêu lách tách, khi cô xé đôi một ổ bánh.

Những mẩu bánh mì vào đến cổ họng và cô bị ho. Cô liền vươn người uống một ngụm cà phê nữa để chữa cháy.

Nếu anh có thể nghe thấy cô rõ mồn một như thế, anh tự hỏi, làm sao cô có thể không nghe thấy anh; tiếng sột soạt lén lút mà anh đang tạo ra trên cầu thang?

Anh còn không dám thở, và anh chưa bao giờ cần thở đến thế.

Cuối cùng đã xuống đến nơi, anh buộc phải nằm nghỉ một phút. Rũ rượi như một cái bao rỗng rơi xuống từ trên cao, cho dù như thế có nghĩa cô sẽ bước ra bắt gặp anh bất cứ lúc nào.

Từ chỗ anh hiện giờ có duy nhất một lối đi thẳng, dẫn ra cửa. Nhưng anh biết mình không thể đứng thẳng mà đi qua nó. Anh đã mệt lả vì tốn quá nhiều sức cho chặng đường vừa rồi. Làm cách nào đây? Làm sao để tới đó?

Gắng gượng đứng dậy, trong đầu anh nảy ra một ý. Anh xoay vai dọc theo bức tường, hai vai quay ra ngoài, rồi hướng vào trong, rồi lại quay ra ngoài. Anh lăn người dọc bức tường, nó chống đỡ cho anh, vì thế anh tiến lên mà không ngã.

Nửa đường, có một chướng ngại, phá vỡ liên kết của anh với bức tường, đó là cái giá treo áo có nhiều gạc, phần dưới là một mặt ghế ngồi nhô ra, phần trên là một bản gỗ mỏng cao, lắp gương. Bản thân nó đã rất mỏng mảnh, tỷ lệ không cân xứng, anh sợ sẽ kéo nó đổ xuống cùng mình.

Anh vụng về lăn người ra, vòng qua nó, giữ chắc nó, và sang tới bên kia. Nhưng việc thả nó ra một cách an toàn còn khó hơn cả việc bám vào nó, và trong một hoặc hai giây anh bị mắc vào một cái bẫy đáng sợ, không dám buông tay, sợ cái trọng lượng bị thả ra đột ngột khiến nó ngả về sau và tròng trành gây náo động.

Anh bỏ bàn tay bên này ra trước, bàn tay bên kia vẫn bám vào nó, như thế tương đương với loại bỏ sức ép. Rồi anh thận trọng buông bàn tay còn lại, và cái giá chỉ đung đưa êm ả một lúc, rồi đứng yên.

Thoát nạn, anh gục xuống thành đống lộn xộn, được che chắn bởi cái giá áo. Vì kiệt sức, vì không còn khả năng bước thêm một bước nào nữa, chứ không phải vì thận trọng, mặc dù chính điều đó đã cứu anh.

Và thình lình, không có bất cứ dấu hiệu báo trước nào, cô đã bước tới cửa bếp thông ra sảnh và đang ngó chòng chọc lên theo hướng cầu thang. Cô thậm chí còn tiến đến, leo lên vài bậc tới một vị trí mà từ đó có thể nghe rõ hơn, để chắc chắn rằng tất cả vẫn yên tĩnh. Sau đó, vẻ hài lòng, cô đi xuống, quay vào bếp.

Anh rút mảnh vải áo nhàu nát đã nhét vào miệng để chặn tiếng thở dốc mà chắc chắn anh sẽ không kiểm soát nổi, và nó xuất hiện một vệt đỏ nhờ nhờ.

Trong vài phút sau, mỗi anh đang ép chặt vào mép cánh cửa, đó không phải là một nụ hôn, nhưng chắc chắn giống y hệt.

Phần việc phải làm còn rất ít, anh cảm thấy cho dù tim mình đã ngừng đập, cơ thể đã chết và đang nguội lạnh, bằng cách nào đó anh vẫn sẽ đi tiếp và hoàn thành nó. Ngay cả những quy luật của tự nhiên cũng không ngăn được anh lúc này, khi đã gần đến đích.

Lẫy cửa nhẹ nhàng rụt vào, anh chờ đợi, đầu vươn ra nghe ngóng xem tiếng động nhỏ ấy có đến tai cô hay không, có khiến cô ra ngoài lần nữa không. Không có.

Anh kéo, và với một chuyển động dè dặt êm xuôi, cánh cửa rời khỏi khung và hiện ra một khoảng trống chờ đợi.

Anh đi qua. Anh loạng choạng ngã vào cột vòm bên ngoài, bất động ở đó, để nó giữ lấy anh.

Lúc sau, anh sẩy chân lao xuống mấy bậc tam cấp.

Lúc sau nữa, anh lảo đảo trên lối đi, cái trụ cổng giữ anh lại, như thể anh đã ngã chéo vào nó và bị nó xiên vào.

Anh đã thoát.

Anh đã trở lại với cuộc sống.

Một mùi hương lạ lùng lấp đầy hai cánh mũi anh: đó là khí trời.

Một lớp màn ấm áp phủ lên đầu và gáy anh: đó là ánh nắng.

Anh đã ở ngoài lối đi công cộng. Anh đung đưa trong ánh nắng chói, bóng anh dưới đất đung đưa theo. Người bập bênh, bóng cũng bập bênh. Anh lấy cái cây bên vệ đường cách đó mấy mét làm đích đến.

Anh tiến về phía nó như một đứa bé đang tập đi, một đứa bé to xác. Những bước ngắn lẫm chẫm không gập đầu gối; hất bàn chân lên, trong tướng đi nghênh ngang vụng về; hai cánh tay giơ ra trước để túm lấy cái đích đang gần lại. Rồi nhào vào thân cây, ôm nó, và rời khỏi nó.

Rồi từ đấy anh di chuyển đến một cái cây khác.

Rồi một cái cây khác.

Nhưng sau đó không còn cái cây nào. Anh bơ vơ.

Hai người phụ nữ đi ngang qua, tay xách giỏ đi chợ, và với bộ dạng rũ rượi anh giơ tay ngăn họ lại, để họ có thể lắng nghe đủ lâu để giúp đỡ anh.

Họ khéo léo đi chệch sang bên để tránh anh, khinh khỉnh hếch mũi lên trời, rảo chân thật nhanh.

“Khiếp, mới sớm tinh mơ mà đã!” Anh nghe thấy một người lên tiếng.

“Ban ngày không có ý nghĩa gì với những tên bợm nhậu!” Bạn đồng hành của bà ta trả lời đầy vẻ mộ đạo.

Anh khuỵu chân xuống, nhưng rồi lại đứng lên, vòng vòng quanh một chỗ như con chim bị gãy cánh.

Đúng lúc ấy, một người đàn ông đi qua chậm bước lại, liếc ánh mắt tò mò về anh. Durand chú ý ngay đến cái nhìn đó, liền tập tễnh đi một bước về phía ông ta, bàn tay lại giơ lên cầu khẩn.

“Giúp tôi với? Tôi không được khỏe.”

Người đàn ông dừng hẳn lại. “Có chuyện gì thế, anh bạn? Anh ốm thế nào?”

“Gần đây có bác sĩ không? Tôi cần gặp bác sĩ.”

“Tôi thấy có một bác sĩ dưới kia, cách hai khu nhà. Tôi vừa đi qua đó.”

“Ông đưa tôi tới đó được không? Tôi không nghĩ tôi có thể đi một mình…” Người đàn ông trước mắt anh đôi lúc chập chờn tách làm đôi, rồi lại chập thành một.

Người đàn ông xem đồng hồ vẻ lưỡng lự. “Tôi bị muộn mất rồi,” ông ta cau mày. “Nhưng tôi không thể từ chối yêu cầu của anh.” Ông ta quả quyết quay sang anh. “Hãy dựa vào tôi. Tôi sẽ đưa anh tới đó.”

Họ nặng nhọc lê bước cùng nhau, Durand cứng nhắc vịn vào người hộ tống của mình.

Một lần anh ngước lên, nhìn vào thứ mọi người vẫn nhìn mỗi ngày.

“Thế giới này thật đẹp làm sao!” Anh thở dài. “Mặt trời chiếu vào vạn vật… vậy mà vẫn còn một ít để dành.”

Người đàn ông nhìn anh khó hiểu, nhưng không nhận xét gì.

Lát sau ông ta dừng lại, họ đã đến nơi.

Trong tất cả những ngôi nhà trong thành phố, hoặc có lẽ, trong tất cả những phòng khám của bác sĩ trong thành phố, chỉ duy nhất nó không đi vào từ dưới đất mà cửa lại ở tầng hai. Một dãy bậc thang, một hàng hiên, chạy lên đó. Đây là một kiểu nhà mới, mọc lên nhan nhản trong mọi khu vực của thành phố, tất cả xây bằng đá màu chocolate, với những tầng trệt không còn được gọi bằng tên cũ, mà được coi là Tầng hầm kiểu Mỹ .

Đáng ra anh đã có thể yên vị ở đó sau khi đến nơi được vài phút.

Nhưng vị ân nhân tốt bụng, đã bỏ ra mười phút để đưa anh đến đây, lại hít sâu lo lắng, và lấy đồng hồ ra xem, lần này vầng trán nhăn lại rõ rệt. “Tôi rất muốn đưa anh lên đó,” ông thú nhận. “Nhưng cuộc hẹn của tôi đã bị muộn hai mươi phút rồi. Tôi không nghĩ anh có thể tự xoay xở… đợi đã, tôi sẽ chạy lên nhấn chuông. Rồi người ra mở cửa có thể giúp anh đi lên nhà.”

Ông ta chạy lên, nhấn chuông, và chạy xuống trong tích tắc.

“Anh sẽ ổn chứ,” ông hỏi, “nếu bây giờ tôi để anh ở đây?”

“Cảm ơn ông,” Durand thở dốc, bám vào chân cột trang trí dưới chân cầu thang. “Cảm ơn ông. Tôi sẽ nghỉ ở đây thôi.”

Người đàn ông đã cắm đầu chạy dọc con phố, quay ngược lại đoạn đường họ vừa đi, cho thấy ông ta còn không có thời gian để chào tạm biệt.

Durand, lại cô độc và bất lực, quay người nhìn lên cánh cửa. vẫn chưa có người ra mở. Đôi mắt anh chuyển sang cửa sổ gần nhất, và ở góc bên dưới của nó dán một tờ giấy mà cả hai người họ đều đã không chú ý để đọc nó.

BÁC SĨ RICHARD FRASER

THỜI GIAN LÀM VIỆC: TỪ 11 GIỜ ĐẾN 1 GIỜ, CÁC BUỔI SÁNG.

Tiếng chuông từ nhà thờ báo hiệu còn nửa tiếng. Nửa tiếng nữa là 11 giờ. Bây giờ là 10 giờ rưỡi.

Thình lình hai bàn tay mềm mại trắng muốt, khum khum đặt lên bờ vai rũ xuống của anh, mỗi bàn tay một bên, từ đằng sau, rồi cô vòng ra trước mặt anh, chặn anh khỏi ngôi nhà, chặn ngôi nhà khỏi anh.

“Lou! Lou! Anh yêu! Có chuyện gì thế? Chuyện gì đưa anh tới đây thế này? Anh nghĩ… Em thấy cửa mở, phát hiện anh đã rời khỏi giường. Em liền chạy khắp các con phố… may mà trông thấy anh đứng ở đây từ khu nhà phía dưới… Lou, sao anh có thể làm thế với em? Sao anh có thể dọa em sợ như thế…?”

Cánh cửa mở ra một cách muộn màng, nhưng bị gương mặt cô chắn ngang, nó ở sát mặt anh át hết mọi thứ khác.

“Xin hỏi?” Giọng một phụ nữ cất lên. “Các vị cần gì?”

Cô gần như không ngoảnh đầu khi trả lời, “Không, không có gì đâu. Là nhầm lẫn thôi.”

Cánh cửa sập lại, và cuộc sống khép lại cùng với nó.

“Lên,” anh hổn hển. “Lên đó đi. Người ta… họ có thể giúp anh.”

“Ở đây,” cô ngọt ngào trả lời. “Trước mặt anh đây… là người duy nhất có thể giúp anh.”

Anh yếu ớt nhích sang một bên để nhìn cho rõ, tìm con đường đi lên mà dù thế nào anh cũng không thể thực hiện.

Cô dịch sang theo anh, vẫn đứng trước mặt anh.

Anh run run trở về chỗ cũ.

Cô cũng trở về theo anh, luôn luôn ở trước mặt anh.

Điệu waltz tiếp tục, điệu waltz chậm rãi và rùng rợn của cái chết, diễn ra trên những bậc thang.

“Cho anh lên đó đi,” anh van vỉ. “Cánh cửa. Hãy rủ lòng thương.”

Giọng cô đầy thương xót, thổn thức. “Về nhà thôi. Tình yêu của em. Người chồng tội nghiệp của em.” Đôi mắt cô cũng vậy. Hai bàn tay cô giữ lấy anh hết sức nhẹ nhàng, anh gần như không nhận thấy.

“Dừng lại đi,” anh rên rỉ. “Em làm thế đủ rồi. Hãy cho anh cơ hội cuối cùng này… đừng tước nó khỏi anh…”

“Anh nghĩ em sẽ hại anh sao? Anh tin một người lạ hơn tin em? Anh không tin rằng em yêu anh ư? Anh nghi ngờ điều đó đến thế ư?”

Anh lắc đầu hoang mang. Khi sức mạnh cơ thể đã cạn, sự sáng suốt của trí óc cũng bị mờ đục theo. Đen là trắng và trắng là đen, và giọng nói sau cùng cất lên mới là chân thực.

“Em yêu anh sao? Có không, Bonny? Bất chấp tất cả?”

“Anh hỏi như thế đuợc ư?” Môi cô tìm đến môi anh, ngay giữa ban ngày, trên đường phố. Chưa bao giờ có nụ hôn dịu dàng hơn thế, tỏa ra sự đắm đuối như thế. Nhẹ như đôi cánh bướm. “Giờ thì hỏi trái tim anh đi,” cô thì thầm. “Hỏi nó đi!”

“Anh đã nghĩ đến những điều đáng sợ như vậy. Đó hẳn là những giấc mơ tồi tệ. Nhưng khi ấy chúng có vẻ rất chân thực. Anh đã nghĩ em muốn gạt anh khỏi đường đi của em.”

“Anh tưởng em là nguyên nhân… khiến anh bị ốm ư?” Bản chất con bạc trỗi dậy. Cô bước sang một bên, như mong muốn lúc trước của anh. “Đôi tay em ở đây. Cánh cửa ở trên kia. Giờ anh hãy đi đến cái nào anh muốn nhất.”

Anh lảo đảo đi về phía cô, nơi cô đứng hiện tại. Đầu anh gục vào ngực cô trong sự đầu hàng khó nói thành lời. “Anh mệt quá, Bonny. Hãy đưa anh về nhà.”

Hơi thở cô làm lay động tóc anh. “Bonny sẽ đưa anh về nhà.”

Cô dắt anh xuống bậc thang, một bậc thang tới nơi cứu giúp là tất cả những gì anh có thể đạt được.

Xung quanh họ, trên những lối đi, lác đác những người qua đường hiếu kỳ dừng chân quan sát hình ảnh cảm động ấy, không hay biết sự tình phía sau.

Khi anh và cô đi xuống đường, những người này, đã hết hứng thú, liền rảo bước tiếp. Nhưng cô gọi người đàn ông ở gần nhất, khi anh ta chưa kịp đi.

“Thưa ông! Cảm phiền ông tìm giúp chúng tôi một chiếc xe được không? Chồng tôi bị ốm, tôi phải đưa anh ấy về nhà thật nhanh.”

Cô có thể làm mềm cả một trái tim sắt đá. Anh ta chạm tay vào vành mũ, rồi thực hiện ngay việc tìm kiếm. Trong phúc chốc, một cỗ xe đã chạy nước kiệu quành ở góc đường, sứ giả của cô đứng ở bậc lên xuống.

Cỗ xe dừng lại và anh ta giúp cô, xốc một bên nách Durand, trong khi cô, mạnh mẽ so với tầm vóc bé nhỏ của mình, đỡ bên kia. Họ nhẹ nhàng đưa anh vào xe, đặt anh ở một tư thế thoải mái trên ghế; người đàn ông lạ mặt phải đi lùi vào trong để làm được việc này, rồi xuống ở phía bên kia sau khi đã buông anh ra.

Cô ngồi xuống bên cạnh Durand, nhoài người đặt tay lên mu bàn tay của vị ân nhân thể hiện lòng biết ơn ngại ngùng. “Cảm ơn ông. Nếu không có ông tôi thật không biết phải làm sao.”

“Chuyện nhỏ thôi, thưa cô.” Anh ta nhìn cô vẻ ái ngại. “Cầu Chúa ở bên hai người.”

“Tôi nguyện cầu cho điều đó,” cô thành kính trả lời khi cỗ xe chuyển bánh.

Trên những bậc thang nơi vừa xảy ra cuộc giằng co, một người đàn ông đặt chân lên hai bậc, tay cầm một chiếc cặp đen, nhìn theo chiếc xe với một thoáng hiếu kỳ. Sau đó, ông ta nhún vai vẻ không hiểu nổi rồi tiếp tục đi lên, tra chìa khóa vào cánh cửa.

Trong cỗ xe trên chặng đường ngắn ngủi trở về nhà ắt chẳng ai có thể tỏ ra lo âu hơn thế.

“Ngả người gối đầu lên lòng em này, anh yêu. Như thế sẽ đỡ khó chịu vì xóc nảy.”

Và trong thoáng chốc họ đã về đến trước nhà; chuyến vượt ngục của anh thế là dang dở, thất bại. Anh không cảm thấy day dứt; cái ảo tưởng về tình yêu của cô quá đủ đầy, quá đê mê.

Đến lượt người đánh xe giúp cô đưa anh xuống. Cô để anh lại một lúc trước cổng. “Anh ở yên đây nhé; bám vào trụ cổng này, để em vào lấy tiền trả ông ta. Em đã hốt hoảng vì anh đến quên mang ví theo.” Cô chạy vào nhà, khung cửa bị bỏ trống một lúc… (và anh nhớ cô, trong giây phút ấy, anh nhớ cô), rồi cô chạy trở ra, trả tiền cho người đánh xe, một mình dìu Durand vào nhà.

Họ lên đến hàng hiên, tia nắng rực rỡ cuối cùng rút khỏi lưng họ. Cô khoát tay và cánh cửa đóng lại sau lưng anh. Mãi mãi chăng? Cho lần cuối cùng chăng?

Dọc gian sảnh mờ tối, qua giá treo áo có gạc, tới chân cầu thang. Từng inch mà anh đã phải đánh đổi bằng máu.

Nhưng tình yêu đã bao bọc anh, ôm anh trong vòng tay nó, và anh mặc kệ tất thảy. Hoặc có lẽ nó chính là cái chết; vì khi cái chết bắt đầu người ta đôi khi cũng chẳng bận lòng gì nữa.

Họ lê từng bước lên cầu thang. Sức mạnh của cô thật đáng kinh ngạc, ý chí giúp anh của cô rất kiên cường.

Ở chiếu nghỉ, trước khúc quành cuối cùng, anh nói hổn hển. “Dừng lại một lát.”

“Sao vậy?”

“Cho anh nhìn lại phòng khách của chúng ta, trước khi lên cao hơn. Có thể anh không bao giờ được nhìn nó nữa. Anh muốn chào tạm biệt nó.” Anh đưa bàn tay run run chỉ qua lan can. “Thấy không, có một chiếc bàn chúng ta đã ngồi bao buổi tối, trước khi chuyện này xảy đến với anh. Em thấy không, có một cây đèn, chính là cây đèn mà anh luôn biết - khi anh còn trẻ và chưa kết hôn - nó sẽ rọi sáng gương mặt xinh đẹp của người vợ ngồi đối diện anh bên kia bàn. Và nó đã soi sáng gương mặt của em, Bonny. Anh cảm ơn nó vì điều đó. Hẳn là nó sẽ không bao giờ soi sáng gương mặt em cho anh ngắm nhìn nữa, phải không Bonny?” Những ngón tay anh lần theo hình dạng nó, trong khoảng không giữa nó với anh. “Những chiếc đèn của tổ ấm, những chiếc đèn của tình yêu, đang ra đi. Đối với anh chúng sẽ không bao giờ tỏa sáng nữa. Tạm biệt…”

“Đi thôi,” cô nói yếu ớt.

Lại quay về phòng; chiếc quan tài nhận lại cái tử thi tự dâng hiến.

Cô dìu anh đến giường, đỡ anh nằm xuống. Rồi nhấc hai chân anh lên giường. Cô cởi giày và áo khoác cho anh. Rồi châm chậm kéo chăn đắp lên người anh, từ một bên, như một tấm vải liệm.

“Anh có thoải mái không, Lou? Chiếc giường có đủ êm không?” Cô đặt tay lên trán anh. “Sự nổi loạn ngu ngốc này hẳn đã cướp hết sức lực của anh mất rồi.”

Đôi mắt anh dán vào cô với sự mềm yếu tan chảy, lạ lùng. Như mắt một con chó bị thương, cầu xin được giải thoát.

Cô nhìn lảng đi, rồi như không cưỡng được lại quay lại. “Sao anh lại nhìn em như thế? Anh muốn nói điều gì vậy?”

Anh ngoắc một ngón tay ra hiệu cho cô cúi xuống gần hơn.

Cô nghiêng đầu để nghe rõ hơn điều anh cần nói.

Anh ngập ngừng đưa tay vuốt những lọn tóc mái vàng óng cong cong trước vầng trán mịn, lành lạnh của cô.

Rồi anh ráng sức chống một khuỷu tay rướn cao hơn, như bị đẩy lên bởi đợt thủy triều rút, bỏ anh lại đằng sau.

“Anh yêu em, Bonny,” anh thì thầm cuồng nhiệt. “Không ai khác. Không tình yêu nào khác. Từ đầu đến cuối, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Và cả sau đó. Sau đó, Bonny! Em có nghe thấy không? Sau đó nữa. Nó sẽ không chấm dứt. Anh thì có, nhưng nó thì không.”

Gương mặt cô vẫn cúi xuống gần hơn, chầm chậm, dè dặt, như một người đang chìm vào một trải nghiệm mới mẻ. Điều gì đó đã xảy ra với nó, đang xảy ra với nó; chưa bao giờ anh thấy nó êm đềm như thế. Như thể anh đang nhìn vào một gương mặt khác, chưa được sinh ra, đang nhút nhát dòm qua chiếc mặt nạ đã bịt kín nó suốt bao năm qua; gương mặt lẽ ra là của cô, có thể đã là của cô… nhưng chưa bao giờ được như thế. Gương mặt của tâm hồn, trước những nghiệt ngã của cuộc đời đã bị biến đổi đến không tài nào nhận ra.

Nó tiến sát mặt anh, lừng chừng, những loạt cảm xúc mới lạ lướt qua nó.

Có nước mắt trong mắt cô. Anh nhìn thấy rõ ràng, không phải ảo giác.

“Vẫn còn một chút tình yêu sao, Lou?”

“Nguyên vẹn.”

“Vậy thì đã có một thời điểm mà em yêu anh. Là lúc này đây.”

Và nụ hôn, không ép buộc, không nài xin, có tất cả ngọt ngào cay đắng, niềm khát khao không thể đạt tới, của một tình yêu có thể đã có. Và anh biết, trái tim anh biết, đây lần lần đầu tiên cô thực sự hôn anh.

“Vậy là đủ,” anh mỉm cười, bằng lòng. “Đó là tất cả những gì anh mong muốn.”

Cầm lấy tay cô, giữ trong tay mình, anh chìm vào một giấc ngủ chập chờn, quên đi cơn sốt, trong một lúc.

Khi anh thức giấc, chút nắng còn lại đang ngả xuống phía tây, như một lớp tro mịn màu trắng; ngày sắp hết. Bàn tay cô vẫn đặt trong tay anh, và cô đang ngồi đó, mặt hướng về anh. Dường như cô đã không nhúc nhích trong những giờ qua, chịu đựng điều mới mẻ này - đau lòng vì người khác - không hề do dự; thức trắng cùng với hình ảnh gương mặt nhuốm màu cái chết của anh… và bất cứ ý nghĩ nào đã thúc đẩy cô làm điều đó.

Anh thả tay cô ra. “Bonny,” anh thở ra, đau đớn. “Lấy cho anh ít thuốc bổ nữa. Anh đã sẵn sàng cho nó. Tốt hơn là… như em đã nói, anh nghĩ…”

Như vô thức, đầu cô bỗng lùi về sau. Ánh mắt cô nhìn anh chăm chăm. Rồi cuối cùng nó lại cúi xuống như cũ.

“Tại sao bây giờ anh lại hỏi đến nó? Em có bắt anh uống đâu.”

“Anh đang đau,” anh nói đơn giản. “Anh không thể chịu đựng thêm nữa.” Và anh cựa quậy người. “Nếu không vì lòng tử tế, hãy vì lòng thương…”

“Để sau đi,” cô thoái thác. “Đừng nói kiểu đó, đừng nói những điều như vậy.”

Mồ hôi túa ra trên mặt anh. Hơi thở anh rít lên qua cánh mũi. “Lúc anh không muốn uống thì em giục anh uống… giờ anh năn nỉ, em lại từ chối…” Anh nhỏm người dậy, rồi lại nằm phịch xuống. “Đi đi, Bonny! Anh không chịu nổi nữa. Đây là thời điểm thích hợp hơn hết. Tại sao phải chờ đợi cái đêm sắp tới? Miễn cho anh cái đêm ấy đi, Bonny, miễn cho anh đi. Nó quá dài… quá tối… quá cô đơn.”

Cô chậm chạp đứng lên, lơ đãng xoa bàn tay cứng đờ. Rồi còn chậm chạp nhiều hơn thế cô đi ra cửa. Cô mở cửa, dừng lại ngoái nhìn anh. Rồi đi ra khỏi phòng.

Anh nghe tiếng cô đi xuống cầu thang. Hai lần cô dừng bước, như thể thôi thúc đã giảm sút; rồi lại đi tiếp, như thể cô thổi bùng nó lên lần nữa.

Cô đi khoảng mười phút. Mười phút trong địa ngục, khi những ngọn lửa táp vào anh từ mọi phía.

Rồi cửa mở và cô trở lại, cầm nó trong tay. Cô đặt nó xuống chiếc bàn đầu giường, đủ gần để anh dễ dàng với tới.

“Không… chưa được…,” cô nói bằng giọng nghèn nghẹn, khi anh cố với lấy nó. “Hãy đợi một lát. Tí nữa mới uống được.”

Cô thắp đèn, đến chỗ lò sưởi vứt que diêm đi. Rồi cô cứ đứng ở đó, nhìn xuống nó. Anh biết cô không nhìn vào bất cứ thứ gì trước mắt; cô đang chìm trong suy tưởng.

Còn suy tưởng của anh lại nhìn thấy tất cả. Mọi chuyện đã qua. Anh lại nhảy điệu waltz với cô ở nhà hàng Antoine’s trong tiệc cưới của họ… “Một điệu waltz dưới ánh mặt trời, anh yêu; giữa màu trời xanh, trắng và vàng.” Câu hỏi nghịch ngợm của cô lại vang lên qua cánh cửa tân hôn… “Ai gõ cửa đấy?,” “Chồng của em.” Ánh đèn ngoài cửa lúc nửa đêm lại hắt vào cô. “Vào phòng với vợ của anh nào, Louis!” Một lần nữa họ tay trong tay sánh bước trên bãi biển ở Bixoli, một cơn gió thổi bay mũ anh, và cô cười ngặt nghẽo nhìn anh đuổi theo nó, gió thổi những lớp váy quấn quanh người cô. Một lần nữa anh giơ cao hai tay rắc những tờ 100 đô la xuống khi cô đang say ngủ. Một lần nữa…

Một lần nữa, một lần nữa, một lần nữa… lần cuối cùng.

Phần tàn nhẫn thực sự của cái chết không phải là thân thể ngừng hoạt động. Nó là sự kết thúc của tất cả hồi ức.

Một ánh sáng chói, như một ngôi sao bập bùng nóng rực, đốt cháy những giấc mơ chết chóc chồng lấn của anh. Anh nhìn qua và thấy cô đang đứng chếch bên lò sưởi, cầm một vật đang cháy giơ về phía nó. Nhưng không phải khúc gỗ hay cành củi; mà là một cuộn giấy cuốn chặt. Khi ngọn lửa từ từ lan tới bàn tay, cô khéo léo đảo lại, cầm lấy đầu bên kia giờ đã thành than cho nó cháy hết phần còn lại.

“Em đang làm gì thế, Bonny?” Anh thều thào.

Cô không quay đầu, như thể anh có nhìn thấy hay không cũng chẳng quan trọng đối với cô. “Đốt giấy.”

“Giấy gì?”

Giọng cô không âm sắc. “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của anh… trị giá 20.000 đô la.”

“Nó không đáng giá như thế. Anh đã bảo em là nó vô giá trị.”

“Nó vừa có hiệu lực trở lại. Em đã đem cầm chiếc nhẫn và thanh toán bổ sung.”

Anh thấy cô bỗng đưa tay ôm mặt, như thể sau khi đã đốt, cô vẫn không dám nhìn kết cục của nó.

Anh thở dài, nhưng không mấy xúc động. “Bonny đáng thương. Em muốn số tiền đó đến thế ư? Anh ắt sẽ…,” anh không nói hết.

Anh nằm im lìm ở đó một lúc.

“Có lẽ lúc này anh nên uống nó,” cuối cùng anh buông ra.

Anh nhoài người đến khi chạm vào cái cốc. Anh cầm nó lên.