PHẦN MỘT MỞ ĐẦU Chương 1 Buổi phỏng vấn xin việc
Jack Torrance nghĩ: Đồ oắt nhiễu sự .
Ullman cao một mét sáu lăm và khi cất bước, ông ta đi với sự mau lẹ cứng nhắc dường như là sở hữu riêng của tất cả những gã đàn ông nhỏ con mập mạp. Mái tóc rẽ ngôi thật chuẩn xác, bộ com lê tối màu thì nghiêm trang nhưng vẫn tạo cảm giác dễ chịu. Tôi là người quý vị có thể trao gửi những vấn đề của mình, bộ com lê như muốn nói điều đó với khách hàng. Đối với cánh nhân viên thì nó nói cụt lủn hơn: Đây nên là tin tốt. Một bông cẩm chướng đỏ cài trên ve áo, có lẽ để không kẻ nào trên đường nhầm Stuart Ullman là nhân viên nhà tang lễ địa phương.
Trong khi nghe Ullman nói, Jack tự nhủ rằng có lẽ trong tình huống này thì gã cũng sẽ chẳng ưa nổi bất kỳ người nào ở phía bên đó bàn.
Ullman vừa hỏi một câu mà gã không để ý. Tệ rồi đây, Ullman là loại người sẽ lưu những khoảng lơ đễnh đó vào một cuốn sổ Rolodex trong đầu để xét tội sau.
“Sao cơ?”
“Tôi vừa hỏi là vợ anh có hiểu rõ những gì quý vị sẽ đảm trách ở đây không. Tất nhiên, còn cả con trai anh nữa.” Ông ta liếc nhìn xuống tờ đơn xin việc trước mặt mình. “Daniel. Vợ anh không chút nào e ngại ý tưởng này chứ?”
“Wendy là một phụ nữ phi thường.”
“Và con trai anh cũng phi thường chứ?”
Jack cười, một nụ cười cầu tài ngoác miệng. “Có thể nói là chúng tôi tin thế. Nó khá chững chạc so với một đứa trẻ lên năm.”
Không có nụ cười đáp lại nào từ Ullman. Ông ta cất đơn của Jack vào trong một bộ hồ sơ. Bộ hồ sơ đi vào trong một ngăn kéo. Mặt bàn lúc này hoàn toàn trống trơn ngoại trừ tấm trải để thấm mực, một chiếc điện thoại, một cái đèn bàn và một khay đựng thư từ đi/đến. Cả hai bên đi/đến cũng trống trơn.
Ullman đứng lên và đi tới tủ hồ sơ trong góc. “Mời anh vòng qua bên này bàn, anh Torrance. Chúng ta sẽ xem qua bản vẽ các tầng khách sạn.”
Ông ta mang lại năm tấm giấy lớn và trải chúng lên mặt bàn gỗ óc chó bóng lộn. Jack đứng kề vai ông ta, nhận thấy rất rõ mùi nước hoa của Ullman. Câu quảng cáo Tất cả những người đàn ông của tôi đều khoác lên mùi hương English Leather hoặc họ không mặc gì hết tự dưng hiện lên trong tâm trí gã và gã phải lấy răng kẹp chặt lưỡi để khỏi cười phá lên. Từ bên kia tường loáng thoáng vẳng lại những âm thanh của nhà bếp Khách sạn Overlook, đang giãn việc dần sau bữa trưa.
“Tầng trên cùng,” Ullman liến thoắng. “Gác mái. Bây giờ thì tuyệt nhiên không có gì trên đó ngoài mấy thứ ba lăng nhăng. Khách sạn Overlook đã đổi chủ mấy lần kể từ Thế Chiến II và có vẻ như mỗi đời quản lý sau lại tống tất cả những gì họ không thích lên trên gác mái. Tôi muốn bẫy chuột và bả độc rải quanh trên đó. Một vài người phục vụ phòng ở tầng ba nói họ nghe thấy những tiếng động loạt xoạt. Tôi không tin điều đó, không hề, nhưng ta không được để dù chỉ một phần trăm khả năng có một con chuột trú ngụ trong Khách sạn Overlook.”
Jack, vốn ngờ rằng mọi khách sạn trên đời đều có một hai con chuột, cắn chặt lưỡi.
“Tất nhiên anh sẽ không để con trai mình lên gác mái trong bất kỳ hoàn cảnh nào chứ.”
“Đúng vậy,” Jack nói và lại trưng ra nụ cười cầu tài toe toét. Quả là một tình cảnh nhục nhã. Cái thằng oắt nhiễu sự này thực sự nghĩ là gã sẽ cho phép con trai mình chơi loanh quanh trên một cái gác mái đặt bẫy chuột, chứa đầy đồ đồng nát và những thứ chỉ Chúa mới biết là gì sao?
Ullman giật xoẹt bản vẽ gác mái và xếp xuống dưới cùng đống giấy.
“Overlook có một trăm mười phòng cho khách,” ông ta nói với giọng am tường. “Ba mươi phòng trong đó, đều là suite, thì nằm ở tầng ba này. Mười phòng ở chái Tây (gồm cả Suite Tổng thống), mười phòng ở giữa, thêm mười phòng nữa ở chái Đông. Tất cả đều nhìn ra khung cảnh tuyệt đẹp.”
Ít nhất thì mày lược cái phần chào hàng đi được không ?
Nhưng gã lặng thinh. Gã cần công việc này.
Ullman đặt bản vẽ tầng ba xuống dưới cùng và họ nghiên cứu tầng hai.
“Bốn mươi phòng,” Ullman nói, “ba mươi phòng đôi và mười phòng đơn. Ở tầng một thì mỗi loại hai mươi phòng. Tầng nào cũng có ba buồng để khăn và chăn ga, phòng chứa đồ thì có một ở cuối chái Đông trên tầng hai và một ở cuối chái Tây tầng một. Có câu hỏi nào không?”
Jack lắc đầu. Ullman cất bản vẽ tầng hai và tầng một đi.
“Giờ đến tầng sảnh. Ở ngay trung tâm đây là quầy tiếp tân. Phía sau là khu văn phòng. Đại sảnh kéo dài sang hai bên quầy tiếp tân, mỗi bên hai mươi bốn mét. Ở phía chái Tây này là Phòng ăn Overlook và Sảnh rượu Colorado. Phòng tiệc và khiêu vũ ở chái Đông. Có câu hỏi nào không?”
“Chỉ thắc mắc về tầng hầm thôi,” Jack nói. “Đối với người trông nom mùa đông, thì đó là tầng quan trọng nhất. Có thể nói đó là sân khấu chính mà.”
“Watson sẽ dẫn anh đi xem toàn bộ nơi đó. Sơ đồ tầng hầm có trên tường phòng lò hơi.” Ông ta chau mày đầy biểu cảm, có lẽ để thể hiện rằng với cương vị quản lý, ông ta không bận tâm đến những khía cạnh tầm thường trong hoạt động của Overlook như là lò hơi và đường ống nước. “Có lẽ đặt vài cái bẫy dưới đó nữa cũng không phải là một ý tồi. Chờ một chút...”
Ông ta nguệch ngoạc lên một tập giấy lôi ra từ túi trong áo khoác (mỗi trang đều có in dòng chữ huyền thoại Từ bàn làm việc của Stuart Ullman bằng mực đen nét đậm), rồi xé trang giấy ra và thả vào khay đựng thư từ gửi đi. Tập giấy biến lại vào trong túi áo khoác của Ullman như kết thúc một trò ảo thuật. Cậu thấy nó đấy nhé, nhóc Jacky, giờ thì hết thấy rồi. Gã này là một tay có số má thực sự.
Họ đã trở lại vị trí ban đầu, Ullman phía sau bàn và Jack ở phía trước, người phỏng vấn và người được phỏng vấn, kẻ van xin và người ban ơn miễn cưỡng. Ullman gấp hai bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn của ông ta lên tấm thấm mực và nhìn thẳng Jack, một gã đàn ông nhỏ thó với mái tóc thưa mặc bộ com lê của dân ngân hàng đi kèm chiếc cà vạt xám nhã nhặn. Cân xứng với bông hoa trên ve áo là một chiếc ghim cài áo nhỏ ở ve áo bên kia. Nó mang dòng chữ NHÂN VIÊN giản dị viết bằng những ký tự nhỏ màu vàng.
“Tôi sẽ hoàn toàn thẳng thắn với anh, anh Torrance. Albert Shockley là một người quyền lực rất quan tâm đến Overlook, một nơi mà kể từ lúc hình thành đến nay đây là mùa đầu tiên có lãi. Ông Shockley cũng có một vị trí trong Ban Giám đốc, nhưng ông ấy không phải là dân làm khách sạn và chính ông ấy sẽ là người đầu tiên thừa nhận điều đó. Nhưng ông Shockley đã thể hiện khá rõ ràng mong muốn của mình với vụ trông nom này. Ông ấy muốn thuê anh. Tôi sẽ làm thế. Nhưng nếu được tự quyết định chuyện này, thì tôi sẽ không thuê anh.”
Hai bàn tay Jack đan chặt lại trong lòng, bấu vào nhau, toát mồ hôi. Đồ oắt hợm hĩnh, đồ oắt hợm hĩnh, đồ oắt ...
“Tôi tin là anh chẳng quan tâm gì lắm đến tôi, anh Torrance. Tôi chẳng bận tâm. Tất nhiên là anh nghĩ sao về tôi cũng không ảnh hưởng gì tới việc tôi tin rằng anh không thích hợp cho công việc này. Trong mùa hoạt động từ ngày mười lăm tháng Năm đến mười ba tháng Chín, Overlook thuê một trăm mười nhân viên toàn thời gian; có thể nói là mỗi người cho một phòng trong khách sạn. Tôi nghĩ là không nhiều người trong số đó ưa tôi và tôi đồ rằng vài người còn nghĩ tôi khá khốn nạn. Họ đã đánh giá đúng về bản tính của tôi. Tôi phải khốn nạn một chút để điều hành khách sạn này theo cách xứng đáng với nó.”
Ông ta nhìn Jack chờ gã đưa ra nhận xét, Jack lại nhá cái nụ cười cầu tài, toe toét và nhăn nhở đến khả ố ấy.
Ullman nói, “Khách sạn Overlook được xây dựng từ 1907 đến 1909. Thị trấn gần nhất là Sidewinder, cách đây sáu mươi lăm cây vồ phía Đông trên những con đường sẽ bị phong tỏa vào quãng chừng cuối tháng Mười hoặc tháng Mười một cho đến một thời điểm nào đó trong tháng Tư. Người cho xây dựng nó tên là Robert Townley Watson, ông nội nhân viên bảo trì hiện tại của chúng tôi. Những người nhà Vanderbilt đã ở đây, rồi nhà Rockefeller, cả nhà Astor và nhà du Pont nữa. Bốn vị tổng thống đã từng ở Suite Tổng thống. Wilson, Harding, Roosevelt và Nixon.”
“Là tôi thì tôi sẽ không tự hào lắm với Harding và Nixon đâu,” Jack lẩm bẩm.
Ullman chau mày nhưng vẫn nói tiếp. “Chuyện điều hành dường như quá sức đối với ông Watson, thế là ông ấy bán khách sạn năm 1915. Nó lại được bán tiếp vào các năm 1922, 1929, 1936. Nó nằm không cho đến cuối Thế Chiến II thì được triệu phú - doanh nhân, nhà sản xuất phim, phi công và nhà phát minh - Horace Derwent mua và cải tạo.”
“Tôi biết cái tên đó,” Jack nói.
“Phải. Mọi thứ ông ta chạm vào dường như đều biến thành vàng... trừ Overlook. Ông ta đã đổ hơn một triệu đô la vào nó thậm chí trước cả khi vị khách đầu tiên thời hậu chiến bước chân qua cửa, biến cái phế tích thành một chốn lộng lẫy. Chính Derwent là người đã cho xây thêm cái sân bóng cửa mà tôi thấy anh trầm trồ ngắm lúc mới đến.”
“Bóng cửa?”
“Tiền thân Anh quốc cho môn bóng vồ của chúng ta đấy anh Torrance. bóng vồ là bóng cửa lai căng. Theo truyền thuyết, Derwent đã học trò này từ trợ lý xã hội của ông ta và phát mê nó. Chỗ chúng tôi có lẽ là sân bóng cửa tốt nhất nước Mỹ.”
“Tôi không nghi ngờ điều đó,” Jack trịnh trọng nói. Một sân bóng cửa, một vườn đầy cây cảnh xén tỉa hình thú phía trước, còn gì nữa đây? Một bàn cờ đua Uncle Wiggly cỡ người thật phía sau kho dụng cụ chắc? Gã đang phát ngán quý ông Stuart Ullman đây, nhưng gã có thể thấy là Ullman vẫn chưa xong. Ullman sẽ nói cho bằng hết bài phát biểu của mình, không sót một chữ.
“Khi đã lỗ ba triệu, Derwent bán nó cho một nhóm các nhà đầu tư California. Trải nghiệm của họ với Overlook cũng tệ không kém. Đơn giản vì họ không phải dân kinh doanh khách sạn.
“Năm 1970, ông Shockley và một nhóm cộng sự đã mua khách sạn và giao quyền quản lý nó cho tôi. Chúng tôi cũng đã phải trải qua cảnh báo động đỏ suốt mấy năm, nhưng tôi rất vui được nói rằng niềm tin những người chủ hiện tại dành cho tôi chưa bao giờ dao động. Năm ngoái chúng tôi đã đạt mức hòa vốn. Và năm nay thì sổ sách của Overlook đã cho thấy có lãi lần đầu tiên trong gần bảy thập kỷ.”
Jack cho rằng niềm kiêu hãnh của đồ oắt khệnh khạng này cũng chính đáng, thế rồi nỗi ác cảm ban đầu lại xô vào gã như một con sóng.
Gã nói, “Tôi không thấy mối liên hệ nào giữa lịch sử phải công nhận là huy hoàng của Overlook và cảm giác của anh rằng tôi không phải người thích hợp cho vị trí này, anh Ullman.”
“Một lý do cho việc Overlook mất rất nhiều tiền là tình trạng xập xệ xảy ra vào mỗi mùa đông. Anh không tin nổi nó làm giảm biên độ lợi nhuận nghiêm trọng đến thế nào đâu, anh Torrance. Mùa đông tàn bạo khủng khiếp. Để giải quyết vấn đề này, tôi đã bố trí một người trông nom toàn thời gian suốt mùa đông để vận hành lò hơi và sưởi ấm những phần khác nhau của khách sạn theo cơ chế xoay vòng hằng ngày. Sửa chữa hỏng hóc ngay khi chúng xuất hiện, để không bị thời tiết tấn công. Thường xuyên cảnh giác trước bất kỳ và mọi tình huống. Trong mùa đông đầu tiên thời chúng tôi, tôi đã thuê một gia đình thay vì một người đàn ông độc thân. Đã có một thảm kịch. Một thảm kịch khủng khiếp.”
Ullman nhìn Jack với vẻ lạnh lùng và dò xét.
“Tôi đã phạm một sai lầm. Tôi thẳng thắn thừa nhận điều đó. Người đàn ông đó là một kẻ nát rượu.”
Jack cảm thấy một nụ cười điềm tĩnh, nhiệt thành - đối lập hoàn toàn với nụ cười cầu tài nhăn nhở - giãn ra trên miệng gã. “Thế thôi à? Tôi ngạc nhiên là Al không nói gì với anh. Tôi bỏ rồi.”
“Có, ông Shockley đã bảo với tôi là anh không còn uống nữa. Ông ấy cũng bảo tôi về công việc gần đây nhất của anh... ta có thể gọi là vị trí tín nhiệm gần đây nhất chăng? Anh dạy môn Ngữ văn cho một trường dự bị ở Vermont. Anh đã mất kiềm chế, tôi nghĩ mình không cần đi vào chi tiết hơn thế. Nhưng tôi thì lại tin rằng trường hợp của Grady có liên quan, đó là lý do tôi đưa... ừm, quá khứ của anh vào cuộc nói chuyện hiện tại. Trong mùa đông năm 1970-71, sau khi chúng tôi đã cải tạo lại Overlook nhưng là trước mùa khai thác đầu tiên, tôi đã thuê... tay Delbert Grady xấu số này. Anh ta chuyển vào sống trong căn hộ mà anh cũng sẽ ở cùng vợ và con trai mình. Tôi đã có vài lấn cấn, chủ yếu là về sự khắc nghiệt của mùa đông và việc gia đình Grady sẽ bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài trong năm hoặc sáu tháng.”
“Nhưng điều đó cũng không đúng hoàn toàn, phải không? Ở đây có điện thoại mà, có lẽ là cả một đài vô tuyến băng tần dân dụng nữa. Còn Vườn Quốc gia Núi Rocky thì nằm trong tầm bay trực thăng và kiểu gì một khu vực rộng như thế lại chẳng có một hai cái trực thăng.”
“Chuyện đó thì tôi chẳng biết,” Ullman nói. “Khách sạn đúng là có một đài vô tuyến hai chiều mà Watson sẽ chỉ cho anh, cùng với danh sách các tần số chính xác để phát tin nếu anh cần giúp đỡ. Đường dây điện thoại giữa nơi đây và Sidewinder vẫn còn hoạt động, nhưng hầu như mùa đông nào chúng cũng đứt ở chỗ này chỗ kia và nhiều khả năng sẽ bị để nguyên đó từ ba tuần đến một tháng rưỡi. Trong kho dụng cụ cũng có một xe trượt tuyết nữa.”
“Vậy thì chỗ này thực sự không hề bị cô lập.”
Ông Ullman tỏ vẻ đau khổ. “Giả sử con trai hoặc vợ anh trượt ngã cầu thang và cậu bé hoặc cô ấy bị nứt sọ, anh Torrance. Khi ấy anh có nghĩ chỗ này bị cô lập không?”
Jack nhìn ra vấn đề. Một chiếc xe trượt tuyết chạy với tốc độ tối đa có thể đưa ta xuống đến Sidewinder trong vòng một tiếng rưỡi... có lẽ. Một chiếc trực thăng từ Đơn vị Cứu hộ Vườn Quốc gia có thể lên đến đây trong vòng ba tiếng đồng hồ… trong những điều kiện tối ưu. Trong một cơn bão tuyết nó thậm chí sẽ không bao giờ cất cánh nổi và ta chẳng thể nào hy vọng lái một chiếc xe trượt tuyết chạy với tốc độ tối đa, ngay cả khi ta dám đưa một người bị thương nặng ra ngoài nhiệt độ có thể là âm 31°C - hoặc âm 42°C, nếu tính cả yếu tố gió lạnh.
“Về trường hợp của Grady,” Ullman nói, “tôi đã cân nhắc kỹ giống như ông Shockley có vẻ đã làm với trường hợp của anh. Bản thân nỗi cô đơn cũng có thể tai hại lắm. Tốt hơn cả là anh ta ở cùng gia đình. Tôi đã nghĩ rằng nếu có vấn đề thì xác suất cao nó sẽ là chuyện gì đấy ít cấp bách hơn một cái hộp sọ bị nứt hay một tai nạn liên quan đến dụng cụ điện hay một con co giật nào đó. Một ca cúm nặng, viêm phổi, gãy tay, thậm chí là viêm ruột thừa. Bất kỳ trường hợp nào nói trên cũng vẫn chừa cho ta đủ thời gian.
“Tôi ngờ rằng chuyện xảy ra là kết quả sau quá nhiều whiskey rẻ tiền, của này thì Grady đã tha vào kha khá mà tôi không hay biết, cùng với cái tình trạng kỳ lạ mà người xưa gọi là sốt cabin. Anh biết cái thuật ngữ này chứ?” Ullman khẽ mỉm cười kẻ cả, chực giải thích ngay khi Jack thú nhận mình không biết, còn Jack thì sẵn lòng trả lời một cách nhanh chóng và lưu loát.
“Nó là tiếng lóng để chỉ phản ứng ngột ngạt có thể xảy ra khi con người ta bị giam kín cùng nhau trong khoảng thời gian dài. Cảm giác ngột ngạt được thể hiện ra ngoài qua ác cảm dành cho những người bị giam kín cùng ta. Trong các trường hợp nghiêm trọng nó có thể gây ra ảo giác và bạo lực - đã xảy ra nhiều vụ giết người vì những chuyện lặt vặt như một món ăn bị khét hoặc tranh cãi về việc đến lượt ai rửa bát đĩa.”
Ullman trông hơi nghệt ra, khiến Jack sướng không để đâu cho hết. Gã quyết định dấn thêm chút nữa, nhưng thầm hứa với Wendy là gã sẽ kiềm chế.
“Tôi đoán là anh đã phạm sai lầm ở chỗ đó. Anh ta đã làm họ bị thương à?”
“Anh ta đã giết họ, anh Torrance ạ, rồi tự tử. Anh ta giết hai cô con gái bằng một cái rìu, giết vợ bằng một khẩu súng săn rồi dùng nó tự kết liễu. Chân anh ta bị gãy. Chắc chắn là say đến nỗi ngã cầu thang.”
Ullman xòe hai bàn tay và ra vẻ đạo đức nhìn Jack.
“Anh ta có tốt nghiệp trung học không?”
“Thực ra là không,” Ullman nói với vẻ hơi miễn cưỡng. “Tôi đã nghĩ rằng một cá nhân hơi thiếu trí tưởng tượng, ta cứ gọi thế đi, thì sẽ ít bị tác động bởi cảnh khó khăn, nỗi cô đơn...”
“Đó là sai lầm của anh,” Jack nói. “Một kẻ ngu dễ bị sốt cabin hơn, cũng như dễ bắn người khác vì một ván bài hay đi ăn cướp trong một phút bốc đồng hơn. Hắn bị chán. Khi tuyết rơi, hắn chẳng có gì làm ngoài xem ti vi hoặc chơi xếp bài và ăn gian khi không thể lấy ra được tất cả những quân át. Chẳng có gì làm ngoài cấm cảu với vợ và quát mắng bọn trẻ con rồi nốc rượu. Ngủ nghê thì khó dần đi vì chẳng nghe thấy âm thanh nào. Vậy là hắn nốc vào cho dễ ngủ để rồi tỉnh dậy chếnh choáng. Hắn trở nên cáu kỉnh. Có lẽ điện thoại cũng ngừng hoạt động còn ăng ten ti vi thì bị thổi rụng và hắn chẳng có gì làm ngoài nghĩ ngợi và ăn gian trò xếp bài và càng lúc càng cáu kỉnh hơn. Cuối cùng là... bùm, bùm, bùm.”
“Trong khi đó một người có giáo dục hơn, như anh chẳng hạn, thì…?”
“Cả vợ tôi và tôi đều thích đọc. Tôi có một vở kịch phải viết, Al Shockley có lẽ đã nói với anh rồi. Danny thì có mấy bộ xếp hình, sách tô màu, rồi cái đài phát thanh ăng ten râu của nó nữa. Tôi dự định dạy nó đọc, tôi còn muốn dạy nó sử dụng giày đi tuyết. Cả Wendy cũng thích học cách đi nữa. Ồ vâng, tôi nghĩ là chúng tôi có thể giữ cho mình bận rộn và sẽ không rút tóc nhau ra nếu ti vi có hỏng.” Gã ngập ngừng. “Và Al đã nói sự thật khi bảo với anh là tôi không còn uống nữa. Trước tôi đã từng uống, phải nói là nghiêm trọng. Nhưng suốt mười bốn tháng vừa rồi tôi không hề động đến dù chỉ một cốc bia. Tôi không có ý định mang rượu lên đây, còn khi tuyết đã rơi thì tôi nghĩ mình cũng chẳng có cơ hội để kiếm được chút nào đâu.”
“Về khoản đó thì anh khá đúng đấy,” Ullman nói. “Nhưng ba người nhà anh ở trên này lâu chừng nào, thì khả năng gặp vấn đề tăng lên chừng đó. Tôi đã nói với ông Shockley chuyện này, ông ấy bảo tôi là ông ấy sẽ chịu trách nhiệm. Giờ thì tôi cũng đã nói với anh rồi và có vẻ như anh cũng sẵn sàng chịu trách nhiệm...”
“Đúng vậy.”
“Được rồi. Tôi sẽ chấp nhận điều đó, vì tôi không có nhiều lựa chọn. Nhưng dù sao thì tôi vẫn thích một tay sinh viên chưa lập gia đình đang nghỉ học một năm thì hơn. Ừm, có lẽ thuê anh cũng được. Bây giờ tôi sẽ bàn giao anh cho Watson, để anh ta hướng dẫn anh xem qua tầng hầm và quanh sân. Trừ khi anh có câu hỏi gì thêm?”
“Không. Hoàn toàn không.”
Ullman đứng lên. “Tôi mong là không có gì phật lòng, anh Torrance. Những điều tôi vừa nói với anh chẳng phải công kích cá nhân gì đâu. Tôi chỉ muốn điều tốt nhất cho Overlook. Nó là một khách sạn tuyệt vời. Tôi muốn nó tiếp tục được như thế.”
“Không. Có gì đâu mà phật lòng.” Jack lại nhá nụ cười cầu tài toe toét, nhưng gã mừng là Ullman không chìa tay ra bắt. Có phật lòng chứ. Đủ loại phật lòng là khác.