← Quay lại trang sách

Chương 3 Watson

Mày đã mất kiềm chế, Ullman bảo thế.

“Được rồi, lò nung của anh đây,” Watson vừa nói vừa bật một bóng đèn trong căn phòng tối tăm ám mùi mốc meo. Ông ta là một người lực lưỡng có mái tóc xù như bỏng ngô, mặc sơ mi trắng và quần kaki màu xanh thẫm. Ông ta mở toang một tấm lưới nhỏ hình vuông ở bụng lò nung rồi cùng Jack nhòm vào trong. “Đây là ngọn lửa mồi.” Một cột lửa màu xanh trắng đang đều đặn rít thẳng lên truyền đi một thứ sức mạnh hủy diệt, nhưng cái từ mấu chốt, Jack nghĩ, là hủy diệt chứ không phải truyền đi : nếu thò tay vào trong kia, ta sẽ có ngay món thịt nướng trong vòng ba giây chóng vánh.

Mất kiềm chế .

(Danny, con có sao không?)

Lò nung choán cả căn phòng, thứ to lớn và lâu đời nhất mà Jack thấy cho đến lúc này.

“Ngọn lửa mồi có chế độ an toàn tự động,” Watson bảo gã. “Thiết bị cảm ứng nhỏ trong đó đo nhiệt độ. Nếu nhiệt độ xuống dưới mức nhất định, nó sẽ bật chuông báo trong căn hộ anh ở. Lò hơi ở phía bên kia tường. Tôi sẽ dẫn anh qua.” Ông ta đóng rầm tấm lưới lại và dẫn Jack ra phía sau khối thép đồ sộ của cái lò nung đến một cánh cửa khác. Lớp thép tỏa vào họ hơi nóng đến choáng váng, vì một lý do nào đó Jack nghĩ đến một con mèo lớn đang gà gật. Watson lạch cạch chìa khóa và huýt sáo.

Mất kiềm.. .

(Khi gã quay trở lại phòng làm việc và thấy Danny đang đứng đó, không có gì ngoài cái quần bỉm cùng một nụ cười nhăn nhở trên mặt, một đám mây giận dữ đỏ rực chầm chậm che đi lý trí Jack. Chậm là nói theo cách chủ quan, bên trong đầu gã, chứ chắc hẳn mọi chuyện đã xảy ra chỉ trong chưa đầy một phút. Nó chỉ có vẻ chậm như kiểu chậm trong một số giấc mơ. Những giấc mơ xấu. Mọi cánh tủ và ngăn kéo trong phòng làm việc của gã dường như đều đã bị bới tung trong khoảng thời gian gã ra ngoài. Tủ đứng, tủ ngăn, giá sách trượt. Mọi ngăn kéo bàn đều bị lôi ra hết cỡ. Bản thảo của gã, vở kịch ba hồi mà gã đang ì ạch phát triển từ một tiểu thuyết ngắn mà gã viết từ bảy năm trước hồi còn học đại học, vương vãi khắp trên sàn. Gã đang uống dở một lon bia và chỉnh sửa Hồi II thì Wendy gọi gã ra nghe điện thoại, thế là Danny đã rót bia lên khắp các trang giấy. Có lẽ là để nhìn bọt sủi. Nhìn bọt sủi, nhìn bọt sủi, những chữ đó lặp đi lặp lại trong đầu gã như thứ hợp âm bệnh hoạn duy nhất trên một cây đàn piano lạc điệu, khép kín đoạn mạch cuồng nộ của gã. Gã hầm hầm sấn về phía thằng con trai ba tuổi, thằng bé đang ngước lên nhìn gã với nụ cười toe toét hả hê ấy, sung sướng với công trình vừa mới hoàn thành tốt đẹp trong phòng làm việc của bố; Danny định nói gì đó nhưng gã đã túm lấy tay thằng bé mà vặn để bắt nó buông cục tẩy máy chữ và cây bút chì bấm nó đang nắm chặt ra. Danny hơi ré lên... không... không… thật sự thì... nó đã thét lên. Thật khó mà nhớ được qua màn sương mù giận dữ, tiếng nện thình thịch dai dẳng của cái hợp âm kiểu Spike Jones ấy. Wendy ở đâu đó, cất tiếng hỏi có chuyện gì. Giọng cô yếu ớt, nhòe đi vì lớp sương trong đầu gã. Đây là chuyện giữa hai bố con. Gã đã xoay giật Danny lại vì muốn phát mông nó, những ngón tay người lớn to bự bấu vào lớp thịt còm cõi trên cánh tay thằng bé, khép lại thành một cái siết chặt, tiếng rắc của cái xương gãy nghe không lớn, không lớn mà lại cực lớn, VÔ CÙNG LỚN , nhưng nó không hề lớn. Chỉ là một âm thanh vừa đủ để xoẹt qua màn sương đỏ như một mũi tên - nhưng thay vì rẽ đường cho ánh sáng, âm thanh đó lại lùa vào những đám mây đen bẽ bàng và day dứt, nỗi kinh hoàng, con quặn thắt đau đớn của linh hồn. Một âm thanh gọn ghẽ chia rõ một bên là quá khứ và bên kia là toàn bộ tương lai sau đó, một âm thanh giống như tiếng ruột bút chì gãy hay một thanh củi nhỏ nhóm lửa bị ta bẻ bằng đầu gối. Một khoảnh khắc im lặng hoàn toàn ở phía bên kia, có lẽ là cho cái tương lai đang bắt đầu, toàn bộ phần còn lại cuộc đời gã. Nhìn khuôn mặt Danny cạn không còn giọt máu đến trắng nhợt như tờ giấy, nhìn đôi mắt vốn to tròn của nó, mỗi lúc một to hơn, dại đi, Jack chắc mười mươi thằng bé sắp chết ngất giữa đống giấy ướt nhoét bia; giọng gã, yếu ớt và say sưa, nhừa nhựa, cố hồi lại mọi thứ, cố tìm một lối đi hòng lách qua tiếng xương gãy không quá lớn kia để trở về quá khứ - trong ngôi nhà này liệu có tồn tại cái gọi là như-ngày-trước không? - thốt lên: Danny, con có sao không? Tiếng Danny ré lên đáp lại, rồi tiếng thở dốc sửng sốt khi Wendy vòng qua hai bố con và nhìn thấy cái góc kỳ quặc giữa cẳng tay và khuỷu của Danny; không cánh tay nào lại lủng lẳng kiểu như vậy trong một thế giới những gia đình bình thường. Tiếng hét của chính cô khi cô ôm chầm lấy nó trong vòng tay mình, cùng một tràng lắp bắp vô nghĩa: Ôi Chúa ơi Danny ôi Chúa ơi ôi lạy Chúa lòng lành cánh tay bé bỏng tội nghiệp của con; còn Jack thì đứng đó, choáng váng và ngơ ngẩn, cố gắng hiểu làm thế nào mà một chuyện như vậy lại có thể xảy ra. Gã đứng đó, mắt gã bắt gặp ánh nhìn của vợ và gã thấy rằng Wendy căm ghét mình. Lúc ấy gã không nghĩ ra ngay là nỗi căm ghét ấy có thể hiểu thế nào trên thực tế; chỉ sau này gã mới nhận ra rằng cô đã có thể bỏ gã ngay đêm ấy, đến một nhà nghỉ nào đó, chờ sáng ra tìm một luật sư ly hôn; hoặc gọi cảnh sát. Gã chỉ biết rằng vợ gã căm ghét gã và gã thấy choáng váng vì điều đó, hoàn toàn cô độc. Gã cảm thấy thật kinh khủng. Đó là cảm giác giống như sắp chết. Rồi cô lao đến điện thoại và quay số bệnh viện với thằng con đang gào thét của họ kẹp dưới cánh tay, nhưng Jack không đi theo cô, gã chỉ đứng đó giữa đống lộn xộn trong căn phòng, ngửi mùi bia và nghĩ...)

Mày đã mất kiềm chế .

Gã quệt mạnh bàn tay ngang môi rồi đi theo Watson vào phòng lò hơi. Trong này ẩm, nhưng không phải chỉ hơi ẩm làm rịn ra thứ mồ hôi nhớp nháp và bệnh hoạn trên trán với bụng và chân gã. Màn hồi tưởng gây ra điều đó, một sự hồi tưởng trọn vẹn làm cho cái đêm từ hai năm trước ấy dường như mới chỉ xảy ra được hai tiếng đồng hồ. Không hề phai nhạt. Nó mang trở lại nỗi bẽ bàng và ghê sợ, cùng cảm giác ta chẳng có giá trị gì, cái cảm giác đó lần nào cũng làm gã thèm uống một ly và con thèm uống lại mang đến nỗi tuyệt vọng thậm chí còn tăm tối hơn - liệu gã có bao giờ có lấy một giờ đồng hồ, không phải một tuần hoặc thậm chí một ngày đâu, nhớ nhé, chỉ là một giờ trong lúc thức thôi, khi mà cái cảm giác thèm khát một ly cồn không bất ngờ ập vào gã thế này?

“Lò hơi đấy,” Watson thông báo. Ông ta rút một cái khăn vuông choàng cổ màu xanh đỏ từ túi quần sau, xì mũi một tiếng đầy dứt khoát, rồi nhét nó khuất mắt trở lại vào túi sau khi đã nhìn qua xem có gì hay ho không.

Cái lò hơi đứng trên bốn bệ xi măng, một cái thùng hình trụ dài bằng kim loại, được bọc đồng và vá lỗ chỗ. Nó chễm chệ dưới một mớ bùng nhùng các đường ống và vòi dẫn chạy ngoằn ngoèo lên trên trần tầng hầm cao chằng chịt mạng nhện. Bên phải Jack, hai đường ống sưởi đi xuyên qua bức tường từ lò nung ở căn phòng liền kề.

“Đồng hồ đo áp suất ở đây.” Watson gõ vào nó. “Tính theo đơn vị psi - pound trên mỗi inch vuông. Chắc anh biết rồi. Giờ tôi đã để nó lên đến một trăm, về đêm thì các phòng hơi lạnh một chút. Một vài khách kêu ca, nhưng kệ xác nó đi. Dù gì họ cũng bị điên nên mới lên đây vào tháng Chín. Hơn nữa, đây là một em già. Thân nó còn nhiều miếng vá hơn bộ đồ liền quần bố thí.” Cái khăn vuông xuất hiện. Xì một cái. Liếc một cái. Lại trở vào.

“Tôi cảm xừ nó rồi,” Watson nói với vẻ suồng sã. “Tháng Chín nào tôi cũng dính một phát. Hết vá víu dưới đây với con điếm già này xong thì lại ra ngoài trời xén hay cào cỏ cho cái sân bóng cửa kia. Dính lạnh vào phát là bị cảm ngay, bà bô già của tôi hay nói thế. Chúa phù hộ bà, đi được sáu năm rồi. Bà bị ung thư. Một khi đã dính ung thư thì xác định làm di chúc luôn đi.

“Anh sẽ cần giữ cho áp suất không vượt quá năm mươi, có thể là sáu mươi. Cái thằng cha Ullman ấy, yêu cầu một ngày sưởi cho chái Tây, hôm sau sưởi chái giữa, rồi bữa sau nữa là chái Đông. Đúng là thằng điên nhỉ? Tôi ghét thậm thằng oắt ấy. Cứ ăng ẳng suốt cả ngày, hắn không khác gì mấy con chó nhãi nhép chuyên cắn vào mắt cá chân mình xong lại chạy vòng vòng đái đầy ra thảm. Chẳng hiểu đầu hắn có não không hay chỉ toàn bã đậu. Mỗi lần nhìn những thằng như hắn thế nào ta cũng lấy làm tiếc giá kể mà có khẩu súng.

“Nhìn đây. Anh đóng mở mấy ống dẫn bằng cách kéo các vòng này nhé. Tôi đánh dấu hết cho anh rồi đấy. Tất cả các nhãn màu xanh là những phòng ở chái Đông. Nhãn màu đỏ là ở giữa. Vàng là chái Tây. Khi nào sưởi cho chái Tây, anh phải nhớ rằng mạn bên đó của khách sạn là phía thực sự hưởng hết cái thời tiết này. Khi trời trở chứng, những căn phòng khu đó lạnh như một mụ đàn bà lãnh cảm nhét cục nước đá trong mình. Anh có thể tăng áp suất thẳng lên tám mươi vào những ngày sưởi chái Tây. Ít nhất thì tôi sẽ làm thế.”

“Mấy cái rơ le cảm biến nhiệt trên tầng…” Jack lên tiếng.

Watson lắc đầu quầy quậy, làm mái tóc xù nẩy tưng tưng trên hộp sọ ông ta. “Chúng có được nối với nhau đâu. Chúng chỉ ở đó cho có thế thôi. Có mấy người từ California lên đây, chúng nó không vừa lòng trừ khi nhiệt độ đủ nóng để trồng cọ trong cái phòng ngủ chó chết của nó cơ. Tất cả hơi ấm đều từ dưới này lên cả. Nhưng phải chú ý áp suất đấy. Thấy nó bò đi chưa?”

Ông ta gõ mặt đồng hồ chính, nó đã bò từ một trăm pound trên mỗi inch vuông lên một trăm linh hai trong lúc Watson độc thoại. Jack bỗng cảm thấy rùng mình dọc sống lưng và thảm nghĩ: Thần chết vừa đi ngang qua cửa . Thế rồi Watson vặn tay xoay áp suất một cái và xả bớt lò hơi. Có một tiếng phì phì rất to vang lên, rồi cây kim rơi về mức chín mươi mốt. Watson vặn đóng cái van lại và tiếng phì phì miễn cưỡng tắt đi.

“Nó bò đi đấy,” Watson nói. “Anh mà nói với cái thằng oắt Ullman nhà quê béo ị ấy là hắn lại lôi sổ sách kế toán ra rồi dành cả ba tiếng đồng hồ trình bày tại sao chúng ta không đủ khả năng mua một cái lò mới cho đến tận năm 1982. Nói cho anh biết, cả cái chỗ này sớm muộn cũng bay lên trời, tôi chỉ hy vọng là thằng mả mẹ béo ị ấy có ở đây để mà cưỡi pháo thăng thiên. Lạy Chúa, giá kể mà tôi có thể nhân từ được như mẹ mình. Bà có thể nhìn ra điều tốt đẹp ở mọi người. Còn tôi ấy à, tôi lại độc địa như một con rắn bị giời leo. Kệ nó chứ, làm sao mà cưỡng được bản chất mình.

“Giờ thì anh phải nhớ xuống đây hai lần một ngày trong đó một lần vào ban đêm trước khi đi khò. Anh phải kiểm tra áp suất. Nếu anh quên, nó sẽ cứ thế bò mãi bò mãi để rồi có khi anh và cả lò nhà anh sẽ tỉnh dậy trên mặt trăng con mẹ nó luôn. Anh chỉ cần xả nó bớt một chút là sẽ không vấn đề gì.”

“Tối đa là bao nhiêu?”

“Ồ, nó được thiết kế đến hai trăm năm mươi, nhưng tuổi này thì chưa đến mức đó nó đã nổ tung từ đời tám hoánh nào rồi. Anh đừng hòng lôi được tôi xuống đứng cạnh nó khi cái đồng hồ kia lên đến một trăm tám mươi.”

“Không có chế độ tự ngắt à?”

“Không, lấy đâu ra. Cái ngữ này được làm trước khi có quy định cho những thứ kiểu đó. Thời buổi này chính phủ liên bang cái gì cũng thọc mũi vào nhỉ? FBI thì mở trộm thư, CIA nghe lén điện thoại... và hãy xem chuyện gì xảy ra với thằng cha Nixon ấy. Thấy có thảm không?

“Nhưng nếu cứ xuống đây đều đặn và kiểm tra áp suất, thì anh sẽ ổn thôi. Với lại nhớ mở lần lượt những cái ống dẫn này như thằng cha kia muốn. Đằng nào thì cũng chẳng phòng nào lên được quá bảy độ đâu, trừ khi chúng ta có một mùa đông ấm áp bất thường. Còn căn hộ riêng anh thì anh muốn cho ấm bao nhiêu cũng được.”

“Còn hệ thống bơm thì sao?”

“Được rồi, tôi cũng đang định nói đến phần đó. Đằng đây, qua cái cửa vòm này.”

Họ bước vào một căn phòng dài hình chữ nhật rộng thênh thang như cả hàng mấy cây số. Watson kéo một sợi dây và một cái bóng điện 75W lẻ loi hắt ra thứ quầng sáng đung đưa bệnh hoạn lên khu vực mà họ đang đứng. Thẳng trước mặt là đáy giếng thang máy, những sợi cáp dày bóng dầu thòng xuống các ròng rọc có đường kính sáu mét và một chiếc mô tơ khổng lồ bê bết dầu mỡ. Giấy báo ở khắp nơi, xếp thành chồng cột thành đống chất trong thùng. Những thùng các tông khác được đánh dấu Hồ sơ hoặc Chứng từ hay Hóa đơn - LƯU! Có mùi vàng vọt và mốc meo. Một số thùng đã bắt đầu bung, làm tràn ra sàn những trang giấy mỏng tang vàng ố có khi đã hai mươi năm tuổi. Jack tròn mắt nhìn quanh, ngỡ ngàng. Có lẽ toàn bộ lịch sử Overlook đang ở đây, chôn vùi trong những cái thùng giấy mục nát này.

“Giữ cho cái thang máy kia hoạt động thật là khốn khổ khốn nạn,” Watson vừa nói vừa hẩy ngón tay cái vồ phía nó. “Tôi biết là thằng Ullman đã hối lộ thanh tra thang máy của tiểu bang mấy bữa tối hoành tráng để khỏi lo thợ sửa cho cái thứ mả mẹ ấy.

“Còn đây là hệ thống bơm trung tâm cho anh.” Trước mặt họ là năm đường ống lớn, mỗi ống đều được bọc lớp cách nhiệt và gia cố bằng những đai thép, vươn thẳng vào trong bóng tối phía trên và biến khỏi tầm mắt.

Watson chỉ vào một cái giá đầy mạng nhện cạnh giếng đường ống. Có mấy miếng giẻ lấm lem dầu mỡ trên đó và một quyển sổ gáy xoắn. “Trong đó là toàn bộ sơ đồ đường ống cho anh,” ông ta nói. “Tôi nghĩ anh sẽ không gặp rắc rối gì về rò rỉ đâu - ở đây chưa bị thế bao giờ - nhưng thỉnh thoảng đường ống lại đông cứng. Cách duy nhất để ngăn điều đó là để vòi nước chảy một chút vào ban đêm, nhưng có đến hơn bốn trăm vòi ở cái nơi mả mẹ này. Thằng lại cái béo ị trên tầng sẽ gào vang đến tận Denver khi thấy hóa đơn nước. Phải vậy không?”

“Tôi cho rằng đó là một phân tích vô cùng chí lý.”

Watson nhìn gã với vẻ khâm phục. “Chà chà, anh thực sự đúng là dân đại học đấy nhỉ? Nói cứ như sách ấy. Tôi ngưỡng mộ điều đó, miễn sao không phải thứ lại cái là rọc. Bọn nó nhiều đứa như thế lắm. Anh biết ai đã khuấy lên những cuộc bạo động ở trường đại học vài năm trước chứ? Đám đồng tính chứ còn ai nữa. Chúng bị ức chế nên phải xả ra thôi. Bước ra khỏi tủ [2E] , chúng gọi thế đấy. Mẹ kiếp, chẳng biết là thế giới này ra làm sao nữa rồi.

“Giờ nhé, nếu nó đóng băng, thì gần như chắc chắn là nó sẽ đóng băng ngay trong khu giếng này. Không được sưởi, anh thấy rồi đấy. Nếu chuyện đó xảy ra, hãy dùng cái này.” Ông ta với tay vào trong một cái thùng gỗ màu cam sứt sẹo và lấy ra một chiếc đèn khò ga nhỏ.

“Anh chỉ cần lột lớp bọc cách nhiệt ra khi thấy chỗ đóng băng và gí thẳng lửa đèn khò vào nó. Hiểu chứ?”

“Vâng. Nhưng nhỡ một đường ống bị đóng băng bên ngoài khu này thì sao?”

“Chuyện đó sẽ không xảy ra nếu anh hoàn thành công việc của mình và giữ cho nơi này được sưởi đều. Đằng nào anh cũng không thể tiếp cận được các đường ống khác. Đừng lo lắng quá. Anh sẽ không gặp rắc rối gì đâu. Dưới này cứ ròn rộn. Đâu cũng thấy mạng nhện. Làm tôi thấy ghê quá, thật đấy.”

“Ullman nói người trông nom mùa đông đầu tiên đã giết cả gia đình mình rồi tự sát.”

“Ừ, tay Grady ấy. Hắn là một diễn viên kém cỏi, vừa nhìn thấy hắn tôi đã biết ngay. Lúc nào cũng nhăn nhở như một con chó ăn vụng. Đó là dạo ở đây họ mới bắt đầu hoạt động và cái thằng mả mẹ Ullman béo ị ấy, hắn sẵn lòng thuê cả Kẻ bóp cổ thành Boston [3E] nếu tên đó chịu làm với mức lương tối thiểu. Một kiểm lâm viên của Vườn Quốc gia đã tìm thấy họ; điện thoại bị cắt. Cả bọn đều ở chái Tây trên tầng ba, đông cứng lại. Hai cô bé là thê thảm nhất. Đứa sáu tuổi đứa tám tuổi. Kháu khỉnh như những viên kẹo. Ôi trời, vụ đó thực sự là bung bét. Thằng Ullman ấy, hắn quản lý một khu nghỉ dưỡng sành điệu gì đó dưới Florida trong mùa khách sạn đóng cửa và hắn đã bắt chuyến bay lên Denver rồi thuê xe trượt tuyết từ Sidewinder lên đây vì các tuyến đường đã bị phong tỏa - xe trượt tuyết, anh có tin được không? Hắn đổ mồ hôi sôi nước mắt để giữ cho vụ này không bị lên báo. Làm khá tốt, tôi phải công nhận hắn khoản ấy. Có một mẩu trên tờ Denver Post , đương nhiên cả bài cáo phó trên cái tờ lá cải giẻ rách dưới Estes Park, nhưng vỏn vẹn có thế. Khá tốt, nếu xét đến cái tiếng nơi này. Tôi cứ chờ đến ngày một tay phóng viên nào đó đào bới lại tất cả và có khi quăng Grady vào làm cớ để xới lên các vụ bê bối.”

“Bê bối gì cơ?”

Watson nhún vai. “Khách sạn lớn nào mà chẳng có bê bối,” ông ta nói. “Cũng như mọi khách sạn lớn đều có một con ma. Tại sao à? Ui xời, người ta đến rồi đi. Thỉnh thoảng lại có một người trong đó thăng thiên trong phòng mình, trụy tim hay đột quỵ hoặc gì đó đại loại thế. Khách sạn thường là những nơi mê tín. Không có tầng mười ba hay phòng mười ba, không có gương ở sau cánh cửa ta đi qua, đại khái vậy. Ui xời, chúng tôi mới mất một bà khách tháng Bảy vừa rồi chứ đâu. Ullman phải giải quyết vụ đó và anh cứ tin là hắn đã thành công. Đó là lý do họ trả cho hắn hai mươi hai nghìn đô la mỗi mùa, cho dù tôi không ưa thằng oắt ấy tới đâu thì cũng phải công nhận là hắn xứng đáng. Kiểu như, một số người đến đây chỉ để nôn mửa và họ thuê một thằng như Ullman để dọn dẹp đống bầy hầy. Cái mụ đàn bà ấy, chắc phải sáu chục con mẹ nó rồi - bằng tuổi tôi đấy! - tóc thì nhuộm đỏ choét như đèn hậu của một con điếm, vú xệ xuống đến rốn vì của đáng tội là mụ không thèm mặc áo yếm gì, tĩnh mạch suy chằng chịt lên xuống khắp chân mụ nhìn chả khác mẹ gì hai cái bản đồ chỉ đường, đồ trang sức lủng lẳng khắp cổ với hai cánh tay và tai. Mụ ta đi cùng một thằng nhóc, chắc không thể nào quá mười bảy, lông lá xuống tận đít còn háng thì phồng căng như thể nó nhồi giấy báo vào đó vậy. Đôi ấy ở đây một tuần, có lẽ là mười ngày, tối nào cũng như tối nào. Một chầu dưới Sảnh Colorado từ năm đến bảy giờ, mụ ta rít cocktail Singapore Sling như thể ngày mai người ta ban luật cấm món đó vậy, còn thằng kia thì chỉ ôm mỗi một chai Olympia, nhâm nhi mãi. Rồi mụ ta vừa trêu đùa vừa pha trò này nọ, cứ mỗi lần mụ ta nói một câu là thằng kia lại nhăn nhở như một con đười ươi khốn kiếp, cứ như thể mụ ta móc dây ở mép nó vậy. Chỉ vài ngày sau là anh thấy ngay rằng nó nhăn nhở càng lúc càng khó khăn hơn, có Chúa mới biết lúc lên giường nó phải nghĩ đến thứ gì mới khiến cho cái máy bơm của mình sẵn sàng nổi. Ừm, rượu xong rồi thì bọn chúng đi ăn tối, nó bước còn mụ ta lảo đảo, say quắc cần câu, anh biết đấy, cứ tranh thủ lúc mụ không để ý là nó lại véo mông đám nữ phục vụ và nhăn nhở cười với họ. Quỷ tha ma bắt, thậm chí bọn tôi còn đánh cuộc xem nó trụ được bao lâu.”

Watson nhún vai.

“Rồi một đêm khoảng tầm mười giờ nó xuống, nói là ‘vợ’ mình ‘khó ở’ - nghĩa là mụ lại say bí tỉ như mọi đêm khác chúng ở đây - và nó định đi mua cho mụ ít thuốc đau bụng. Thế rồi nó phóng đi với chiếc Porsche nhỏ mà chúng đã lái đến, và đó là lần cuối cùng chúng tôi thấy nó. Sáng hôm sau mụ ta xuống và cố làm ra vẻ điềm nhiên như không có chuyện gì, nhưng cả ngày mụ ta mỗi lúc một tái nhợt đi, rồi tay Ullman hỏi, kiểu rất ngoại giao, xem mụ có muốn hắn báo cho cảnh sát bang không, nhỡ khi thằng kia gặp tai nạn nhỏ hay gì đó. Mụ ta bổ vào hắn như một con mèo. Không-không-không, thằng kia lái xe giỏi lắm, mụ ta có lo gì đâu, mọi chuyện đều trong tầm kiểm soát, nó sẽ quay về ăn tối. Vậy là chiều hôm ấy quãng tầm ba giờ mụ bước vào Sảnh Colorado và chẳng hề ăn uống gì hết. Mụ lên phòng mình quãng mười rưỡi và đó là lần cuối cùng có người nhìn thấy mụ còn sống.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Chuyên gia pháp y của hạt cho biết là mụ đã uống khoảng ba chục viên thuốc ngủ sau khi nốc ngần ấy rượu. Hôm sau thì chồng mụ đến, một tay luật sư cỡ bự nào đó ở New York. Lão cho Ullman thân mến nếm trải cả bốn tầng địa ngục khác nhau. Tôi sẽ kiện chuyện này và tôi sẽ kiện chuyện kia và khi tôi mà kiện xong thì anh thậm chí sẽ không còn lấy một cái quần lót sạch đâu, vân vân và vân vân. Nhưng Ullman rắn thật, thằng chó ấy. Ullman làm lão phải xuống giọng ngay. Có lẽ là hỏi lão luật sư tay to ấy có muốn thấy vợ mình chềnh ềnh trên khắp những tờ báo của New York không: Vợ ngài luật sư nổi tiếng Này Nọ được phát hiện đã chết với một bụng đầy thuốc ngủ. Sau khi chơi trò chim chuột với một cậu nhóc chỉ bằng tuổi cháu nội mình.

“Cảnh sát bang tìm thấy chiếc Porsche phía sau một tiệm burger mở suốt đêm dưới Lyons, rồi Ullman nhờ vả bên này bên kia để nó được trả về cho tay luật sư. Sau đó cả hai cùng hội đồng lão Archer Houghton, tức là tay chuyên gia pháp y của hạt, để lão thay đổi kết luận thành chết do tai nạn. Bị trụy tim. Giờ thì lão Archer lái một chiếc Chrysler. Tôi chẳng cay cú gì lão. Của tự rơi vào mồm tội gì mà không đớp, nhất là khi lão cũng nhiều tuổi rồi.”

Cái khăn tay lại hiện ra. Xì ầm ĩ. Nhòm. Biến mất.

“Rồi chuyện gì xảy ra tiếp ấy hả? Khoảng một tuần sau, một con hĩm phục vụ phòng, tên là Delores Vickery, rú ầm lên cứ gọi là thôi rồi trong lúc đang dọn dẹp căn phòng nơi hai kẻ kia đã ở và nó ngất xỉu ngay lập tức. Khi tỉnh lại, con đó nói là nó đã nhìn thấy mụ đàn bà chết trong nhà tắm, nằm nồng nỗng trong bồn. ‘Mặt bà ta tím ngắt và trương phềnh,’ nó nói, 'rồi bả nhăn nhở cười với tôi.′ Thế là Ullman cho nó nghỉ việc với hai tuần lương bồi thường rồi bảo nó biến đi. Tôi tính chắc phải tầm bốn mươi lăm người đã chết trong cái khách sạn này kể từ năm 1910 khi ông nội tôi đưa nó vào kinh doanh.”

Ông ta nhìn Jack với ánh mắt sắc lẻm.

“Anh biết hầu hết bọn họ ra đi thế nào không? Trụy tim hoặc đột quỵ, trong lúc đang giã cô em đi cùng. Ngữ ấy thì những khu nghỉ dưỡng kiểu này có mà đầy, các cụ già muốn chơi cú chót. Họ lên vùng núi này để giả vờ như thể mình lại đôi mươi. Thỉnh thoảng cũng có vụ lòi ra, không phải ai điều hành nơi này cũng giỏi ngăn chuyện lọt ra với báo chí như Ullman đâu. Vậy nên Overlook cũng tai tiếng phết đấy. Tôi dám cá là cả cái khách sạn Biltmore mả mẹ ở thành phố New York cũng đầy tai tiếng, nếu ta biết hỏi đúng người.”

“Nhưng không có ma?”

“Anh Torrance, tôi đã làm việc ở đây cả đời rồi. Tôi chơi ở đây khi còn là một thằng nhóc không lớn hơn con trai anh trong tấm ảnh cất ví mà anh cho tôi xem nữa. Tôi chưa từng thấy ma bao giờ. Anh có muốn ra ngoài phía sau với tôi không, tôi sẽ chỉ cho anh xem kho dụng cụ.”

“Được thôi.”

Lúc Watson với tay lên tắt điện, Jack nói, “Dưới này nhiều giấy má nhỉ.”

“Ôi, nhiều thật chứ đùa. Như thể tích lại cả nghìn năm rồi ấy. Báo chí với chứng từ cũ rồi hóa đơn nhập hàng và những thứ Chúa mới biết là gì nữa. Bố tôi thường kiểm soát chúng đâu ra đấy hồi chúng tôi còn cái lò nung bằng củi, nhưng giờ thì không xuể nổi. Có lẽ năm nào đấy tôi phải bảo một đứa chở chúng xuống Sidewinter mà đốt mới xong. Ấy là nếu Ullman chịu nhả tiền. Mà chắc hắn sẽ nhả thôi nếu tôi hét cái từ ‘chuột’ đủ to.”

“Vậy là có chuột à?”

“Ừ, tôi nghĩ là có vài con. Tôi có bẫy và bả mà Ullman muốn anh sử dụng trên gác mái và dưới này. Anh để mắt kỹ đến con trai anh đấy, anh Torrance. Anh không muốn có chuyện gì xảy ra với nó đâu.”

“Không, chắc chắn rồi.” Từ miệng Watson thì lời khuyên đó không có vẻ gì là châm chích.

Họ đi ra cầu thang và dừng đó một lát trong lúc Watson xì mũi tiếp.

“Tôi nghĩ anh sẽ thấy tất cả những dụng cụ cần thiết và cả mấy thứ vô tích sự ngoài đó. Rồi còn vụ lợp mái. Ullman đã nói với anh về chuyện đó chưa?”

“Rồi, anh ta muốn lợp lại một phần mái phía Tây.”

“Hắn sẽ vắt cho bằng hết những việc có thể bắt anh làm miễn phí, cái thằng nhãi béo múp ấy, thế rồi đến mùa xuân hắn sẽ lại lèm bèm là anh làm sai trật quá nửa. Có lần tôi đốp thẳng vào mặt hắn, tôi bảo...”

Những lời của Watson nhỏ dần thành tiếng vo ve dễ chịu trong khi họ bước lên cầu thang. Jack Torrance ngoái lại nhìn một lần nữa vào cái bóng tối thăm thẳm, bốc mùi bụi bặm và thầm nghĩ giả sử mà có nơi nào trên đời này có ma, thì đó chính là nơi này. Gã nghĩ đến Grady, bị giam bởi tuyết mềm nhưng không thể lay chuyển, lặng lẽ hóa điên và gây ra tội ác dã man. Họ có gào thét không nhỉ? gã tự hỏi. Tội nghiệp Grady, cảm nhận vòng vây mỗi ngày một khép chặt hơn, cuối cùng nhận ra rằng mùa xuân sẽ không bao giờ đến với hắn nữa. Lẽ ra hắn không nên ở đây. Lẽ ra hắn không nên mất kiềm chế.

Khi gã theo Watson bước qua cánh cửa, những từ đó vọng về gã như một hồi chuông ai oán, đi kèm một tiếng rắc giòn tan - như tiếng ruột bút chì gãy. Lạy Chúa, gã thèm một ly quá. Cả nghìn ly cũng được.