← Quay lại trang sách

Chương 5 Bốt điện thoại

Jack đỗ chiếc VW trước của hiệu thuốc Rexall trong trung tâm mua sắm Table Mesa và đợi động cơ tắt hẳn. Gã lại tự hỏi sao mình không vào đó mà thay cái bơm nhiên liệu nhỉ, rồi lại tự nhủ rằng vợ chồng gã không đủ tiền cho việc đó. Dù sao đi nữa, nếu cái xe nhỏ này còn chạy được đến tháng Mười một thì nó cũng có thể về hưu trong danh dự rồi. Đến tháng Mười một, tuyết trên vùng núi đó hẳn là sẽ cao quá nóc chiếc con bọ... có khi còn cao hơn cả ba chiếc xe con bọ xếp chồng lên nhau nữa.

“Bố muốn con ở yên trong xe, bác sĩ ạ. Bố sẽ mua cho con một thanh kẹo nhé.”

“Sao con lại không được vào ạ?”

“Bố phải gọi điện thoại. Đây là chuyện riêng tư.”

“Đó là lý do bố không gọi ở nhà ạ?”

“Chính xác.”

Wendy nhất quyết đòi lắp điện thoại bất kể tình trạng tài chính rối beng của họ. Cô lập luận rằng nhà có một đứa bé - nhất là một thằng bé như Danny, thỉnh thoảng lại bị ngất lịm đi - thì họ không thể không có điện thoại. Vậy là Jack phải xỉa ra ba mươi đô phí lắp đặt, thế đã đủ chát rồi, lại còn khoản tiền ký quỹ chín mươi đô, quả này mới thực sự là đau. Và từ bấy đến giờ chiếc điện thoại vẫn nằm câm lặng ngoại trừ hai cuộc gọi nhầm số.

“Cho con một thanh Baby Ruth, được không bố?”

“Ừ. Con ngồi yên và không được nghịch cần số, nhớ chưa?”

“Vâng ạ. Con sẽ xem bản đồ.”

“Con xem đi.”

Khi Jack ra ngoài, Danny mở hộc để găng tay chiếc con bọ và lấy ra năm tấm bản đồ trạm xăng rách bươm: Colorado, Nebraska, Utah, Wyoming, New Mexico. Nó thích bản đồ đường bộ, thích lần ngón tay theo những con đường. Đối với nó thì những tấm bản đồ mới là điều tuyệt vời nhất của việc chuyển đến miền Tây.

Jack tới quầy thuốc, mua thanh kẹo cho Danny, một tờ báo và số tháng Mười tạp chí Writer's Digest . Gã đưa cho cô gái một tờ năm đô và nhờ cô thối tiền bằng những đồng hai mươi lăm xu. Cầm số xu trong tay, gã bước tới bốt điện thoại cạnh máy đánh chìa khóa và lách vào trong. Từ đây gã có thể thấy Danny trong chiếc con bọ qua ba lần kính. Đầu thằng bé đang mải mê củi xuống những tấm bản đồ. Jack bỗng thấy trào lên một tình yêu gần như tuyệt vọng dành cho thằng bé. Cảm xúc đó thể hiện ra trên mặt gã dưới một vẻ u ám sắt đá.

Kể ra thì gã gọi cú điện thoại nghĩa vụ này để cảm ơn Al ở nhà cũng được; chắc chắn là gã không định nói bất kỳ điều gì khiến Wendy phản đối cả. Nhưng chính lòng kiêu hãnh của gã đã nói không. Dạo này gã hầu như luôn nghe theo những gì lòng kiêu hãnh của mình mách bảo, vì ngoài vợ với con trai, cùng sáu trăm đô la trong tài khoản thanh toán và một chiếc Volkswagen đời 1968 rệu rã, thì lòng kiêu hãnh là tất cả những gì gã còn lại. Thứ duy nhất thuộc về gã. Thậm chí cả cái tài khoản cũng là chung. Một năm trước gã còn đang dạy Ngữ văn ở một trong những trường dự bị đại học tốt nhất New England. Hồi đó gã còn có bạn bè - mặc dù không hẳn là những người bạn mà gã từng có trước khi gã leo lên chiếc xe đó [5E] - mấy người bạn xã giao, những đồng nghiệp cùng khoa vẫn ngưỡng mộ sự sắc sảo khi đứng lớp cùng nỗi đam mê riêng tư dành cho viết lách của gã. Sáu tháng trước mọi việc còn tốt đẹp. Tự nhiên gã có dư ra một khoản tiền sau mỗi kỳ lương hai tuần, đủ để mở một tài khoản tiết kiệm nho nhỏ. Dạo gã còn uống thì không bao giờ có dư lấy một xu, mặc dù Al Shockley đã đứng ra đãi không biết bao nhiêu chầu. Gã và Wendy đã bắt đầu nói chuyện nghiêm túc về việc tìm một ngôi nhà và trả góp trong vòng một năm gì đó. Một ngôi nhà nông thôn ở vùng quê, mất sáu đến tám năm để cải tạo nó hoàn toàn, lo quái gì, họ còn trẻ, họ có thời gian cơ mà.

Thế rồi gã đã mất kiềm chế.

George Hatfield.

Mùi hy vọng đã chuyển thành mùi da thuộc cũ trong văn phòng Crommert, toàn bộ sự vụ giống như một cảnh nào đó trong chính vở kịch của gã: những tấm ảnh cũ của các đời hiệu trưởng Stovington trước đó treo trên tường, những bản tranh khắc ngôi trường vào năm 1879, khi nó mới được xây dựng, cùng với năm 1895, khi tiền từ gia đình Vanderbilt cho phép người ta xây tòa nhà thể thao đa năng nay vẫn còn nguyên ở đầu phía Tây sân bóng đá, lừng lững, đồ sộ, phủ kín dây thường xuân. Thường xuân tháng Tư sột soạt bên ngoài khe cửa sổ của Crommert cùng với âm thanh uể oải của hơi ấm toát ra từ máy sưởi. Đây không phải là cảnh dựng, gã còn nhớ đã nghĩ thế. Đây là cảnh thật. Cuộc đời gã. Làm sao gã lại khiến nó bung bét hết thế này?

“Tình hình rất nghiêm trọng, Jack. Nghiêm trọng kinh khủng. Hội đồng quản trị đã yêu cầu tôi truyền đạt quyết định tới anh.”

Hội đồng muốn Jack nộp đơn thôi việc và gã đã trao nó cho họ. Giá kể mà ở hoàn cảnh khác, đến tháng Sáu ấy là gã đã vào biên chế rồi.

Theo sau cuộc nói chuyện trong văn phòng Crommert là cái đêm tối tăm, khủng khiếp nhất đời gã. Con thèm muốn, thiết tha được say mèm chưa bao giờ tồi tệ như thế. Tay gã run bắn. Gã quờ đổ thứ này thứ kia. Và gã chỉ lăm lăm trút hết lên Wendy và Danny. cơn giận dữ của gã như con thú dữ tợn bị cột vào một sợi dây sòn xước. Gã đã bỏ ra khỏi nhà vì sợ biết đâu sẽ đánh hai mẹ con. Cuối cùng gã lại đứng ngoài một quán bar, điều duy nhất ngăn gã không vào trong là cái nhận thức rằng nếu gã làm thế, Wendy cuối cùng cũng sẽ rời bỏ gã và mang Danny đi với cô. Cái ngày hai mẹ con bỏ đi thì gã cũng coi như chết rồi.

Thay vì vào trong quán bar, nơi những bóng đen ngồi nếm các loại nước lãng quên ngon lành, gã đã tới nhà Al Shockley. Kết quả bỏ phiếu của Hội đồng là sáu chọi một. Al chính là người duy nhất đó.

Giờ thì gã quay số tổng đài và cô gái cho gã biết rằng với một đô la tám mươi lăm xu gã sẽ được kết nối với Al ở cách đó ba nghìn hai trăm cây số trong ba phút. Thời gian là tương đối mà cưng ơi, gã nghĩ bụng và nhét vào tám đồng hai lăm xu. Gã có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng tít tít điện tử khi kết nối của gã tìm đường về phía Đông.

Bố Al là Arthur Longley Shockley, ông trùm thép. Ông ta đã để lại cho người con trai duy nhất của mình, Albert, một gia tài với hàng loạt các khoản đầu tư cùng cương vị giám đốc và ghế chủ tịch ở rất nhiều ban bệ. Một trong số đó là ghế Hội đồng quản trị Học viện Dự bị đại học Stovington, dự án từ thiện ruột của ông già. Cả Arthur và Albert Shockley đều là cựu học sinh ở đây và Al sống ở Barre, đủ gần để có mối quan tâm cá nhân đến các công việc ở ngôi trường. Mấy năm liền Al từng là huấn luyện viên tennis cho Stovington.

Jack và Al đã trở thành bạn bè theo một cách hoàn toàn tự nhiên và không phải do trùng hợp: tại rất nhiều buổi giao lưu của trường và khoa mà cả hai cùng tham dự, họ bao giờ cũng là hai người say sưa nhất ở đó. Shockley thì ly thân với vợ, còn cuộc hôn nhân của Jack cũng đang từ từ trượt dốc, mặc dù gã vẫn còn yêu Wendy và đã thật lòng (cũng như thường xuyên) hứa hẹn thay đổi, vì cô và vì bé Danny.

Hai người bọn họ đã tiếp tục cuộc vui sau nhiều bữa tiệc khoa, tấn công các quán bar đến khi chúng đóng cửa, rồi ghé qua một cửa hàng tiện lợi mua một két bia để uống trong lúc đỗ xe ở cuối một con đường vắng vẻ nào đó. Có những buổi sáng Jack loạng choạng trở về căn nhà thuê khi ánh bình minh ló rạng trên trời và thấy Wendy cùng đứa bé nằm ngủ trên ghế, Danny bao giờ cũng nằm ở mé trong, một bàn tay bé xíu nắm lại bên dưới quai hàm Wendy. Gã nhìn họ và cảm giác căm ghét bản thân lại trào lên đắng nghét trong cổ họng, thậm chí còn gắt hơn cả vị bia cùng thuốc lá và những ly martini - hay martian (Người Sao Hỏa), như Al vẫn gọi. Đó là những lần mà tâm trí gã sẽ hướng một cách đầy cân nhắc và tỉnh táo đến ý nghĩ về khẩu súng hoặc sợi dây thùng hay lưỡi dao cạo.

Nếu con say bí tỉ xảy ra vào một đêm trong tuần, gã thường ngủ khoảng ba tiếng, thức dậy, thay quần áo, nhai bốn viên Excedrin và rời nhà đi dạy lớp Thi nhân Mỹ của mình lúc chín giờ sáng trong khi vẫn còn say. Chào các em, hôm nay Kỳ Nhân Mắt Đỏ sẽ kể cho các em nghe chuyện Longfellow mất vợ trong vụ cháy lớn.

Hồi đó gã đã không tin rằng mình nghiện rượu, Jack nghĩ trong lúc điện thoại Al bắt đầu đổ chuông trong tai. Những tiết dạy gã đã bỏ lỡ hoặc lên lớp mà râu ria lỏm chỏm, người còn nồng nặc mùi Người Sao Hỏa từ đêm hôm trước. Không phải mình, mình có thể bỏ bất kỳ lúc nào. Những đêm mà gã và Wendy ngủ giường riêng. Nghe này, anh không sao mà. Chắn bùn bị móp. Chắc chắn rồi, anh lái xe được mà. Những giọt nước mắt thường trực của cô trong phòng tắm. Ánh mắt e dè của đồng nghiệp gã tại bất kỳ bữa tiệc nào có phục vụ đồ uống cồn, dù là rượu vang. Cảm giác dần dần vỡ ra rằng người ta đang nói đến mình. Cái nhận thức là gã đang chẳng tạo ra được gì với chiếc máy chữ Underwood của mình ngoài những cục giấy vo viên gần như trắng trơn có đích đến là thùng rác. Gã đã từng giống như một thứ bảo bối ở Stovington, có lẽ là một nhà văn Mỹ đang chớm nở, chắc chắn là một người hoàn toàn phù hợp để dạy cái môn văn chương đầy sáng tạo và bí hiểm ấy. Gã đã xuất bản hai mươi tư truyện ngắn. Gã đang viết một vở kịch, đồng thời nghĩ rằng có thể có một cuốn tiểu thuyết đang ấp ủ ở góc khuất tiềm thức nào đó. Nhưng giờ thì gã chẳng sáng tác được gì và công việc dạy học thì đã bung bét cả.

Cuối cùng thì chuyện cũng kết thúc vào một buổi tối chưa đến một tháng sau khi Jack làm gãy tay con trai. Vụ đó, gã có cảm giác, đã chấm dứt cuộc hôn nhân của gã. Tất cả những gì còn lại là chờ Wendy có đủ quyết tâm... gã biết, giá kể mẹ cô không phải cái đồ chó cái hạng A như thế, hẳn Wendy đã bắt một chuyến xe bus quay về New Hampshire ngay khi Danny đủ bình phục để di chuyển. Hết thật rồi.

Lúc ấy là vừa quá nửa đêm một chút. Jack và Al đang đi vào Barre trên Cao tốc 31, Al ngồi sau vô lăng chiếc Jag của ông ta, đánh tay rất lụa ở những khúc cua, nhiều lúc còn vượt qua cả vạch vàng đôi. Cả hai đều say khướt; đêm ấy Người Sao Hỏa đã đổ bộ rất đông. Họ quành qua khúc cuối cùng trước khi đến cây cầu với tốc độ hơn một trăm mười cây số giờ và trên đường có một chiếc xe đạp trẻ con, rồi tiếng rít chói tai, đau đớn khi cao su bị mài ra từ lốp chiếc Jag, Jack nhớ nguyên cảm giác nhìn khuôn mặt Al lù lù qua vành vô lăng như một mặt trăng tròn trắng bệch. Sau đó là âm thanh loảng xoảng chát chúa khi họ đâm vào chiếc xe đạp ở tốc độ hơn sáu mươi cây số giờ và nó đã bắn tung lên như một con chim méo mó, vẹo vọ, cái ghi đông đập vào kính chắn gió, rồi chiếc xe đạp lại bay trên trời, bỏ lại lớp kính an toàn rạn chằng chịt trước đôi mắt Jack lồi ra. Một thoáng sau gã nghe thấy tiếng rầm đáng sợ cuối cùng khi nó rơi xuống mặt đường phía sau họ. Thứ gì đó kêu huỵch một cái bên dưới họ khi lốp xe cán qua nó. Chiếc Jag trượt hẳn sang một bên, Al vẫn đang điều khiển vô lăng và từ xa lắc, Jack nghe thấy chính mình đang nói, “Lạy Chúa, Al. Chúng ta cán phải nó rồi. Tôi thấy thế.”

Trong tai gã điện thoại vẫn đang đổ chuông. Thôi nào, Al. Có ở nhà đi. Để tôi làm cho xong .

Al đã cho chiếc xe dừng lại bốc khói chỉ cách mố cầu chưa đầy một mét. Hai lốp chiếc Jag đã bẹp dí. Chúng đã để lại những vệt cao su cháy dích dắc dài cả bốn chục mét. Hai người nhìn nhau một hồi rồi chạy ngược trở lại trong màn đêm lạnh giá.

Chiếc xe đạp hoàn toàn tan tành. Một bánh mất tiêu, khi ngoảnh đầu nhìn lại thì Al thấy nó nằm ở giữa đường, gần chục cái nan hoa chĩa lên như dây đàn piano. Al lưỡng lự nói, “Tôi nghĩ đó là thứ bị chúng ta cán qua, Jacky.”

“Vậy thì đứa bé đâu.”

“Cậu có nhìn thấy đứa bé nào không?”

Jack cau mày. Mọi chuyện đã xảy ra nhanh đến điên rồ. Ngoặt vào khúc cua. Chiếc xe đạp lù lù trong quầng đèn pha chiếc Jag. Al hét gì đó. Rồi đến vụ va chạm và cú trượt dài.

Họ chuyển chiếc xe đạp vào bên vai đường. Al quay lại chiếc Jag và bật đèn báo dừng khẩn cấp. Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó họ sục sạo hai bên đường, dùng một chiếc đèn pin bốn pin cực sáng. Không có Mặc dù đã muộn, vẫn có vài xe chạy qua chiếc Jag đang đỗ và hai người đàn ông cầm đèn pin nhấp nhô. Không xe nào dừng lại. Về sau Jack nghĩ rằng đó hẳn phải là ý Chúa, nhằm cho cả hai người bọn họ một cơ hội cuối cùng, nên đã ngăn cho cảnh sát không đến, đã ngăn không cho bất kỳ ai đi qua gọi cảnh sát.

Đến hai giờ mười lăm họ quay lại chiếc Jag, tỉnh táo nhưng nôn nao. “Nếu không có ai đạp xe, thì chiếc xe làm gì ở giữa đường chứ?” Al gặng hỏi. “Không đỗ ở vệ đường; mà ở chính con mẹ nó giữa! ”

Jack chỉ biết lắc đầu.

“Đầu dây bên kia không nhấc máy,” nhân viên tổng đài nói. “Quý khách có muốn tôi gọi tiếp không?”

“Thêm vài hồi chuông nữa đi, tổng đài. Cảm phiền cô.”

“Vâng, thưa quý khách,” giọng nói nhu thuận trả lời.

Thôi nào, Al !

Al đã đi bộ qua cầu tới bốt điện thoại công cộng gần nhất, gọi cho một người bạn độc thân và nói sẽ trả cho anh ta năm mươi đô nếu anh ta chịu lấy mấy cái lốp đi tuyết cho chiếc Jag từ gara rồi mang chúng xuống chỗ cây cầu trên Cao tốc 31 bên ngoài Barre. Hai mươi phút sau người bạn kia xuất hiện, mặc quần jean và áo ngủ. Anh ta săm soi hiện trường.

“Tông chết ai à?” anh ta hỏi.

Al đã bắt tay vào kích nâng phần đuôi xe lên còn Jack thì đang tháo ốc. “Ơn Chúa là không có ai,” Al nói.

“Tôi quay về luôn đây. Sáng mai trả tiền tôi cũng được.”

“Được rồi,” Al nói mà không hề ngẩng lên.

Hai người bọn họ đã thay lốp mới vào mà không có vấn đề gì, rồi cùng nhau lái xe quay về nhà Shockley. Al cho chiếc Jag vào gara và tắt máy.

Trong bóng tối ông ta nói, “Tôi bỏ uống thôi, Jacky. Kết thúc rồi. Tôi đã giết xong Người Sao Hỏa cuối cùng của mình rồi.”

Và giờ khi vã mồ hôi trong cái bốt điện thoại này, Jack chợt nhận ra rằng gã chưa bao giờ nghi ngờ khả năng nói được làm được của Al. Gã đã lái chiếc VW về nhà với radio bật lên, một nhóm nhạc disco nào đó cứ đồng thanh tụng, nghe thật ma mị trong ngôi nhà trước lúc bình minh: Hãy cứ làm đi... bạn muốn làm mà... hãy cứ làm theo ý bạn muốn... Bật to đến đâu gã vẫn nghe thấy tiếng lốp xe nghiến, tiếng va chạm. Khi chớp mắt nhắm lại, gã nhìn thấy cái bánh xe trơ trọi bị nghiến móp với những thanh nan hoa gãy chĩa lên trời.

Khi gã vào trong nhà, Wendy đang ngủ trên ghế sofa. Gã ngó vào phòng Danny và Danny đang nằm ngửa trong cũi của nó, ngủ say sưa, cánh tay vẫn còn bó bột. Trong quầng sáng từ ánh đèn đường bên ngoài đã được màn cửa lọc dịu đi, gã có thể nhìn thấy những dòng chữ màu tối trên lớp thạch cao trắng nơi tất cả các bác sĩ và y tá khoa nhi đã ký tên lên.

Đó là tai nạn. Thằng bé bị ngã cầu thang .

(ôi mày là đồ dối trá bẩn tưởi)

Đó là tai nạn. Tôi đã mất kiềm chế .

(mày là đồ nát rượu rác rưởi khốn kiếp chúa xì nước mũi và đó chính là mày)

Nghe này, nào, thôi đi, làm ơn, chỉ là tai nạn.. .

Nhưng lời khẩn nài cuối cùng ấy bị xua đi bởi hình ảnh ánh đèn pin nhấp nhô đó, khi họ lùng sục giữa những đám cỏ dại khô cuối tháng Mười một, tìm kiếm cái thi thể sõng soài mà lẽ ra phải nằm ở đó, chờ đợi cảnh sát đến. Việc Al là người cầm lái thì cũng quan trọng gì. Đã từng có những đêm gã cầm lái.

Gã kéo chăn lên che người cho Danny, vào phòng ngủ hai vợ chồng và lấy khẩu Llama.38 của Tây Ban Nha xuống từ ngăn trên cùng tủ quần áo. Nó ở trong một cái hộp giày. Gã ngồi trên giường với nó gần cả tiếng đồng hồ, săm soi nó, mê mẩn vẻ sáng loáng chết chóc của nó.

Khi gã cất nó trở lại vào trong hộp và cho chiếc hộp vào lại trong tủ thì đã là bình minh.

Sáng hôm đó gã gọi cho Bruckner, trưởng khoa và nhờ ông ta làm ơn đứng lớp thay gã. Gã bị cúm. Bruckner đồng ý, với thái độ kém hài lòng hơn hẳn mọi khi. Jack Torrance cực kỳ dễ bị cúm suốt cả năm qua.

Wendy làm cho gã trứng bác và cà phê. Họ im lặng ăn. Âm thanh duy nhất phát ra từ sân sau, nơi Danny đang hớn hở dùng bàn tay lành lặn dẫn những chiếc xe tải chạy qua đống cát.

Cô đi rửa bát đĩa. Quay lưng lại phía gã, cô nói, “Jack, em đã suy nghĩ.”

“Vậy sao?” Gã châm một điếu thuốc với hai bàn tay run rẩy. Sáng nay chẳng váng vất gì, kể cũng quái lại. Chỉ run rẩy. Gã hấp háy mắt. Trong bóng tối chớp mắt đó, chiếc xe đạp bắn tung lên đập vào kính chắn gió, làm rạn mặt kính. Lốp xe nghiến rít lên. Ánh đèn pin nhấp nhô.

“Em muốn nói chuyện với anh về... về điều sẽ là tốt nhất cho em và Danny. Có lẽ là cho cả anh nữa. Em không biết. Em nghĩ lẽ ra chúng ta phải nói về chuyện này từ trước rồi mới đúng.”

“Em có thể làm điều này cho anh được không?” gã vừa hỏi, vừa nhìn đầu điếu thuốc lá cháy rung rinh của mình. “Em làm một việc vì anh được không?”

“Gì cơ?” Giọng cô hờ hững và vô cảm. Gã nhìn lưng cô.

“Chúng ta hãy nói về chuyện đó sau một tuần nữa tính từ hôm nay. Nếu em còn muốn.”

Lần này thì cô quay người về phía gã, tay cô đầy bọt, khuôn mặt xinh xắn của cô tái nhợt và chán chường. “Jack, hứa hẹn chẳng ăn thua gì với anh cả. Anh toàn là cứ thế...”

Cô ngừng lại, nhìn vào mắt gã, ngơ ngẩn, bỗng nhiên trở nên bối rối.

“Sau một tuần,” gã nói. Giọng gã đã mất đi toàn bộ sức mạnh và hạ xuống thành một tiếng thì thầm. “Xin em. Anh không hứa hẹn gì cả. Nếu đến lúc ấy em vẫn còn muốn nói chuyện, thì chúng ta sẽ nói chuyện. Về bất kỳ điều gì em muốn.”

Họ nhìn nhau qua căn bếp đầy nắng một hồi lâu, và khi cô quay lại với mớ bát đĩa mà không nói năng gì thêm nữa, gã bắt đầu rùng mình. Lạy Chúa, gã cần một ly. Chỉ là một chút động viên tinh thần để nhìn nhận mọi việc cho rõ ràng...

“Danny nói nó mơ thấy anh gặp tai nạn ô tô,” cô đột nhiên nói. “Đôi lúc nó có những giấc mơ rất buồn cười. Nó nói về chuyện đó sáng nay, lúc em mặc quần áo cho nó. Có không, Jack? Anh có gặp tai nạn không?”

“Không.”

Đến trưa cơn thèm thuồng một ly đã trở thành một con sốt nhẹ. Gã tới chỗ Al.

“Cậu vẫn cai đấy chứ?” Al hỏi trước khi cho gã vào nhà. Nhìn Al thật kinh khủng.

“Vẫn cai như bà chửa. Trông ông như Lon Chaney đóng trong Bóng ma trong nhà hát vậy.”

“Vào nhà đi.”

Họ chơi bài suốt cả buổi chiều. Họ không hề uống.

Một tuần trôi qua. Gã và Wendy không nói chuyện nhiều. Nhưng gã biết cô đang theo dõi, không tin tưởng. Gã uống cà phê đen nguyên chất và không biết bao nhiêu lon Coca-Cola. Có đêm gã uống nguyên cả một xách sáu lon rồi chạy vào nhà vệ sinh và nôn thốc nôn tháo. Mức của các chai cất trong tủ rượu không tụt xuống. Sau giờ dạy gã tới chỗ Al Shockley - cô ghét cay ghét đắng Al Shockley, ghét hơn bất kỳ ai mà cô từng ghét - và khi gã về nhà cô sẽ quả quyết là mình ngửi thấy mùi scotch hoặc gin trong hơi thở gã, nhưng gã lại nói chuyện đầy mạch lạc với cô trước bữa tối, uống cà phê, chơi với Danny sau khi ăn, uống cùng nó một lon Coca, đọc cho nó nghe một câu chuyện trước giờ ngủ, rồi ngồi chấm bài với ly cà phê đen bên cạnh, hết ly này đến ly khác, để rồi cô phải tự thừa nhận rằng mình đã nhầm.

Vài tuần trôi qua và lời chưa nói ra lại lùi sâu hơn vào phía trong môi cô. Jack cảm nhận được sự thoái lui của nó nhưng biết là nó sẽ không bao giờ bỏ cuộc hoàn toàn. Mọi chuyện bắt đầu dễ dàng hơn một chút. Thế rồi đến vụ George Hatfield. Gã đã lại mất kiềm chế, lần này thì người hoàn toàn không một giọt rượu.

“Thưa quý khách, đầu dây bên kia vẫn không...”

“A lô?” giọng Al, thở không ra hơi.

“Mời quý khách,” nhân viên tổng đài hậm hực nói.

“Al, tôi Jack Torrance đây.”

“Jacky!” Giọng vui mừng thực sự. “Cậu thế nào?”

“Tốt. Tôi gọi chỉ để nói cảm ơn thôi. Tôi nhận được việc rồi. Thật hoàn hảo. Nếu bị tuyết giam trong nhà suốt mùa đông mà tôi còn không thể viết xong vở kịch chết tiệt ấy, thì nghĩa là tôi sẽ không bao giờ viết xong được nó.”

“Cậu sẽ viết xong thôi.”

“Mọi việc thế nào?” Jack lưỡng lự hỏi.

“Vẫn cai,” Al đáp lại. “Cậu?”

“Như bà chửa.”

“Có thèm không?”

“Ngày nào cũng”

Al bật cười. “Tôi biết cái cảnh ấy. Nhưng tôi không biết bằng cách nào cậu vẫn cai được sau cái vụ Hatfield, Jack ạ. Vụ ấy kể ra cũng hơi quá.”

“Thực sự là do tôi tự đẩy mình đến nông nỗi đó thôi,” gã thản nhiên nói.

“Ôi, mẹ kiếp. Đến mùa xuân là tôi sẽ khiến Hội đồng rút lại quyết định thôi. Chưa gì Effinger cũng đã nói là có lẽ bọn họ hơi vội vã. Và nếu vở kịch đó mà làm nên chuyện thì..”

“Ừ. Nghe này, con tôi đang chờ trong xe, Al. Có vẻ như nó bắt đầu cảm thấy bứt rứt...”

“Chắc chắn rồi. Hiểu mà. Chúc cậu có một mùa đông tuyệt vời trên đó, Jack. Rất mừng vì giúp được cậu.”

“Cảm ơn ông lần nữa, Al.” Gã cúp máy, nhắm nghiền mắt trong bốt điện thoại nóng nực, lại nhìn thấy cái xe đạp bị đâm, ánh đèn pin nhấp nhô. Đã có một tin nhỏ trên báo ngày hôm sau, thực ra cũng không hơn một mẩu chèn chỗ trống, nhưng danh tính chủ chiếc xe không được đề cập. Tại sao nó lại ở ngoài đó lúc đêm hôm sẽ mãi là một bí ẩn đối với họ, có lẽ cứ như thế thì hơn.

Gã quay ra xe, đưa cho Danny thanh Baby Ruth đã hơi chảy.

“Bố ơi!”

“Gì vậy, bác sĩ?”

Danny ngần ngừ, nhìn vẻ mặt lơ đãng của bố nó.

“Lúc chờ bố từ chỗ cái khách sạn ấy quay về, con đã có một giấc mơ xấu. Bố có nhớ không? Lúc con ngủ thiếp đi ấy?”

"Ừ hử.”

Nhưng không ăn thua rồi. Tâm trí bố nó đang ở chỗ khác, không phải ở bên nó. Lại nghĩ về Việc Xấu.

(Con mơ thấy bố làm cơn đau, bố ạ)

“Con đã mơ gì vậy, bác sĩ?”

“Không có gì,” Danny nói khi hai bố con lùi xe ra trong bãi đỗ. Nó cất bản đồ trở lại hộc để găng.

“Con chắc chứ?”

“Vâng.”

Jack thoáng nhìn sang con trai với vẻ băn khoăn, thế rồi tâm trí gã chuyển sang vở kịch của mình.