← Quay lại trang sách

PHẦN 3 TỔ ONG VÒ VẼ Chương 14 Trên mái nhà

“Ối mả cha nó đồ chó đẻ khốn kiếp!”

Jack Torrance vừa gào lên vì bất ngờ và đau đơn, vừa đập bàn tay phải vào cái áo bảo hộ vải chambray xanh dương, giũ ra một con ong vò vẽ chậm chạp, to tướng vừa đốt mình. Sau đó gã vội vội vàng vàng leo lên nóc nhà, vừa leo vừa nhìn qua vai xem đám anh chị em của con ong đó có ra khỏi cái tổ mà gã vừa bóc để chiến đấu hay không. Nếu có thì thật là tệ. Cái tổ nằm giữa gã và cái thang, còn cánh cửa sập dẫn xuống gác mái thì đã bị khóa từ bên trong. Khoảng rơi là hai mươi mét từ mái nhà xuống sân xi măng nằm giữa khách sạn và bãi cỏ.

Không khí trong lành phía bên trên cái tổ vẫn lặng lẽ, không chút xáo động.

Jack ngồi kẹp chân trên sống mái nhà, vừa rít lên ghê tởm qua kẽ răng vừa xem xét ngón trỏ phải của mình. Nó chưa gì đã sung lên và gã đồ rằng mình phải đánh liều lén bò qua cái tổ đó tới chỗ thang để leo xuống mà chườm đá ngón tay.

Hôm đó là ngày 20 tháng Mười. Wendy và Danny đã đi đến Sidewinder bằng xe tải khách sạn (một chiếc Dodge già nua, rên rỉ, nhưng vẫn đáng tin cậy hơn con VW, lúc này đã khò khè như hấp hối) để mua ba can sữa và sắm sửa cho lễ Giáng sinh. Vẫn còn quá sớm để mua sắm, nhưng không thể biết được khi nào thì tuyết đến lấp đường. Đã xuất hiện những cơn gió lốc và đường từ Overlook xuống đó cũng đã xuất hiện những chỗ phủ băng.

Cho tới lúc này thì mùa thu vẫn tuyệt đẹp đến mức gần như siêu nhiên. Ba tuần họ ở đây là những chuỗi ngày tràn ngập sắc vàng. Buổi sáng giá lạnh âm một độ nhường chỗ cho những buổi trưa mười lăm độ, nhiệt độ hoàn hảo để trèo lên mái nghiêng chái Tây Overlook mà lợp mái. Jack thoải mái thừa nhận với Wendy rằng thực ra gã đã có thể làm xong việc từ bốn ngày trước, nhưng gã không thấy nhu cầu phải vội vàng. Phong cảnh nhìn từ trên này thật là lộng lẫy, thậm chí làm lu mờ cả phong cảnh nhìn từ cửa sổ Suite Tổng Thống. Quan trọng hơn, bản thân công việc cũng giúp thư giãn. Trên mái nhà gã cảm thấy mình được chữa lành những vết thương nhức nhối trong ba năm qua. Trên mái nhà gã cảm thấy bình yên. Ba năm qua dần có vẻ như một cơn ác mộng đầy nhiễu động.

Những tấm ván lợp đã mục nát hết cả, vài tấm bị những cơn bão mùa đông năm ngoái thổi bay. Gã đã gỡ hết chúng ra, la lớn “Bom xuống!” khi quăng chúng khỏi mái bên, không muốn để rơi trúng Danny nếu thằng bé tình cờ đi lang thang qua. Con ong vò vẽ đốt lúc gã đang kéo một tấm che khe nối đã hỏng.

Trớ trêu là gã luôn tự cảnh báo mình rằng mỗi khi leo lên mái nhà đều phải chú ý xem có tổ ong không; gã còn có cả bom khói diệt côn trùng để đề phòng. Nhưng sự tĩnh lặng và bình yên sáng hôm đó tuyệt đối tới mức trạng thái cảnh giác của gã đã mất hiệu lực. Gã đã quay trở lại thế giới vở kịch mà gã đang dần dựng nên, phác thảo trong đầu những cảnh gã sẽ viết vào buổi tối. Vở kịch tiến triển rất tốt và dù Wendy không nói nhiều, gã vẫn biết là cô hài lòng. Gã đã bị tắc tị ngay cảnh quan trọng giữa Denker, tay hiệu trưởng tàn bạo, với Gary Benson, chàng thanh niên nhân vật chính của gã, trong suốt sáu tháng bất hạnh vừa qua ở Stovington, những tháng ngày khi con thèm uống trở nên trầm trọng đến mức gã gần như không thể tập trung vào những bài giảng trên lớp, nói gì đến những tham vọng nghệ thuật ngoại khóa kia.

Nhưng mười hai buổi tối vừa qua, khi gã thực sự ngồi trước chiếc máy chữ loại dùng cho văn phòng hiệu Underwood mà gã đã mượn từ văn phòng chính dưới tầng, cái chỗ tắc ấy đã biến mất dưới những ngón tay gã, thần kỳ như kẹo bông tan khi chạm môi. Gần như không chút khó khăn, gã đã có được cái nhìn sâu sắc bấy lâu mình vẫn thiếu về nhân vật Denker và đã viết lại hầu hết màn hai theo đó, cho nó xoay quanh cảnh mới viết. Và tiến độ màn ba - mà gã đang nung nấu trong đầu ngay lúc con ong vò vẽ chấm dứt dòng tư duy - cũng đang dần trở nên rõ ràng hơn. Gã nghĩ gã có thể phác thảo ra nó trong hai tuần, rồi đến đầu năm mới là có được một bản thảo hoàn thiện cho cả cái vở kịch chết dẫm này.

Gã có một người đại diện ở New York, một phụ nữ tóc đỏ rắn mặt tên là Phyllis Sandler thích hút Herbert Tareytons, uống Jim Beam trong cốc giấy và nghĩ rằng mặt trời văn học mọc và lặn quanh Sean O’Casey. Cô ta đã chào bán ba truyện ngắn của Jack, kể cả cái truyện đăng trên Esquire . Gã đã viết thư nói với cô ta về vở kịch: nó có tựa đề Ngôi trường nhỏ , kể lại mâu thuẫn cơ bản giữa Denker, một học sinh thần đồng nhưng thất bại để rồi trở thành một tay hiệu trưởng tàn bạo và hung dữ ở một ngôi trường tiểu học vùng New England vào những năm đầu thế kỷ, với Gary Benson, cậu học sinh mà hắn thấy như một phiên bản trẻ tuổi của chính mình. Phyllis đã trả lời thư, tỏ ra quan tâm và khuyên gã đọc O’Casey trước khi bắt đầu viết. Đầu năm nay cô ta viết thư lần nữa, hỏi vở kịch ở chỗ chết tiệt nào rồi? Gã lạnh nhạt trả lời rằng Ngôi trường nhỏ đã bị mắc kẹt không rõ tới lúc nào - có khi là vô thời hạn - ở khoảng giữa bàn tay và trang giấy, “trong cái sa mạc Gobi độc đáo dành cho dân trí thức được gọi là tắc mạch sáng tác ấy”. Giờ thì có vẻ như cô ta sắp có được vở kịch rồi. Còn nó có hay không hoặc nó có được dàn dựng không lại là một chuyện khác. Gã dường như không quan tâm lắm đến những điều đó. Gã cảm thấy, theo một nhẽ, rằng bản thân vở kịch, toàn bộ vở kịch, chính là cái chỗ tắc ấy, một biểu tượng khổng lồ cho những năm tồi tệ ở trường Stovington, cho cuộc hôn nhân đã bị gã suýt nữa lật nhào như một đứa trẻ hư đốn cảm lái con xe ọp ẹp, cho vụ hành hung kinh khủng thằng con trai gã, cho sự cố ở bãi đỗ xe với George Hatfield, sự cố mà gã không thể tiếp tục xem như chỉ là một cơn mất kiềm chế bốc đồng tai hại. Giờ thì gã nghĩ rằng tật uống rượu của gã có một phần phát sinh từ mong muốn vô thức được thoát khỏi Stovington và cái cảm giác an toàn gã có khi ấy đã bóp nghẹt mọi ham muốn sáng tạo. Gã đã thôi uống, nhưng nhu cầu được tự do vẫn lớn như thế. Lý giải cho vụ George Hatfield. Bây giờ, những gì còn lại của ngày tháng ấy là vở kịch trên bàn làm việc trong phòng ngủ của gã và Wendy, một khi nó đã hoàn thành và được gửi đến cái văn phòng bé tí tẹo của Phyllis ở New York thì gã có thể quay sang làm những thứ khác. Không phải tiểu thuyết, gã chưa sẵn sàng nhảy vào cái đầm lầy ba năm hao tâm tổn trí nữa, nhưng chắc chắn sẽ có thêm truyện ngắn. Có thể là một tuyển tập hẳn hoi.

Gã di chuyển đầy thận trọng, lần mò bò xuống mái nhà dốc, qua đường phân cách nơi những tấm ván lợp hiệu Birds màu xanh lá mới tinh nhường chỗ cho phần mái gã vừa dọn xong. Gã tới rìa mái phía bên trái cái tổ ong vò vẽ mình vừa phát hiện rồi cẩn trọng lần ra chỗ nó, sẵn sàng lùi lại, lao cầu thang xuống đất nếu thấy tình hình không ổn.

Gã chồm tới chỗ tấm che khe nối mà mình đã kéo ra và nhìn vào trong.

Cái tổ ở trong đó, lọt trong khoảng trống giữa tấm che khe nối cũ và lớp sơn phủ mái ngoài cùng. Cái tổ thật lớn. Một quả bóng giấy xam xám mà Jack cảm tưởng đường kính phải sáu mươi phân. Hình dạng nó không được hoàn hảo do không gian giữa lớp kim loại và những tấm lợp quá hẹp, nhưng gã nghĩ lũ khốn này xảy ra một căn nhà cũng đáng nể lắm. Bề mặt cái tổ tràn ngập những con côn trùng di chuyển nặng nề, chậm chạp. Chúng là những con ong vò vẽ tường, to con và ác độc, chứ không phải bọn ong vò vẽ vàng, nhỏ và ít kích động hơn. Nhiệt độ trời thu đã khiến cho chúng có vẻ ỉu xìu và ngu ngốc, nhưng Jack, từ nhỏ đã biết về bọn ong vò vẽ, cho rằng gã vẫn còn may mắn khi chỉ bị đốt một phát. Và, gã nghĩ, nếu Ullman mà thuê người làm công việc này vào giữa mùa hè thì tay nhân công nào bóc chỗ lợp này chắc chắn sẽ bị một cú bất ngờ lớn. Chắc chắn luôn. Khi có một tá ong vò vẽ ập vào người cùng một lúc và bắt đầu đốt cả tay chân mặt mũi, đâm xuyên qua quần áo anh, thì hoàn toàn có khả năng anh sẽ quên bẵng mình đang ở độ cao hơn hai mươi mét. Anh có thể nhảy luôn từ mái nhà xuống trong lúc tìm cách trốn chạy bọn chúng. Cả cái bọn tí ti ấy, con to nhất cũng chỉ dài bằng nửa mẩu bút chì.

Gã đã đọc ở đâu đó - trong một tờ phụ trương số Chủ nhật hoặc một bài đăng tạp chí ở cuối sách - rằng bảy phần trăm tai nạn xe hơi chết người không có lời giải. Không có lỗi cơ khí, không quá tốc độ, không uống rượu, không thời tiết xấu. Đơn giản là một chiếc xe gặp tai nạn trên đoạn đường vắng, một người chết, là lái xe, chuyện xảy ra với anh ta không có lời giải thích. Trong bài viết có đính kèm cuộc phỏng vấn với một cảnh sát tuần tra, người này đưa ra giả thuyết rằng nhiều vụ trong số những vụ gọi là “tai nạn vô nghĩa” này xảy ra do côn trùng trong xe. Ong vò vẽ, hay chỉ một con ong thường, thậm chí có thể là một con nhện hay con ngài. Lái xe bị hoảng loạn, tìm cách đập hay hạ cửa sổ để đuổi nó ra. Có thể con côn trùng đốt anh ta. Có thể chỉ đơn giản là lái xe mất kiểm soát. Dù sao kết quả vẫn là bùmm!... xong đời. Và con côn trùng, thường là không bị tổn hại gì, sẽ vui vẻ bay khỏi cái xác xe còn bốc khói, tìm đến những bãi cỏ xanh tươi hơn. Jack nhớ là tay tuần tra đó mong muốn các nhà bệnh học tìm nọc côn trùng trong quá trình khám nghiệm tử thi nạn nhân.

Lúc này, nhìn xuống cái tổ, gã cảm thấy nó có thể xem như là một biểu tượng cho những gì gã đã trải qua (cũng như những gì gã đã bắt gia đình mình trải qua) và là điềm báo cho một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cách nào khác để giải thích những gì đã xảy ra với gã? Vì gã vẫn cảm thấy rằng toàn bộ những trải nghiệm bất hạnh ở Stovington cần phải được nhìn nhận với Jack Torrance ở trạng thái thụ động. Gã không làm gì cả, mọi thứ ập đến với gã. Gã biết nhiều giáo viên ở Stovington là bợm rượu, hai trong số họ thậm chí ở cùng Khoa Ngữ văn. Zack Tunney có thói quen mua nguyên một bom bia vào chiều thứ Bảy, chôn nó dưới đụn tuyết ngoài sân sau qua đêm, sau đó uống gần như sạch sành sanh trong ngày Chủ nhật khi xem bóng đá và các bộ phim xưa. Mặc dù vậy, cả tuần Zack vẫn tỉnh như sáo - thỉnh thoảng mới làm một ly cocktail nhẹ vào bữa trưa.

Gã và Al Shockley đã từng nghiện rượu. Họ tìm đến nhau như hai kẻ bị ruồng bỏ nhưng vẫn còn giao thiệp đủ để chìm cùng nhau thay vì chìm một mình. Biển của họ có vị ngũ cốc nguyên hạt thay vì muối, chỉ vậy thôi. Nhìn xuống những con ong vò vẽ đang chậm chạp đi lại làm việc theo bản năng trước khi mùa đông đến và giết chết hết tổ trừ con ong chúa ngủ đông, gã nghĩ mình có thể thẳng thắn hơn nữa. Gã vẫn là kẻ nghiện rượu, sẽ luôn là thế, có lẽ kể từ đêm hội khối mười hồi cấp ba, khi gã uống ly rượu đầu đời. Việc đó không liên quan gì tới sức mạnh ý chí, sự đúng sai của việc uống rượu hay tính cách gã mạnh hay yếu. Có một cái công tắc hỏng đâu đó ở bên trong, hoặc một cái cầu chì không hoạt động, dù muốn dù không gã cũng đã bị đẩy xuống dốc, đầu tiên chậm, rồi nhanh dần, trong khi Stovington đè áp lực của nó lên gã. Một con dốc dài trơn trượt mà ở dưới cùng là chiếc xe đạp vô chủ tan nát và đứa con trai gãy tay. Jack Torrance ở trạng thái thụ động. Cả cái tính nóng nảy của gã nữa, cũng như vậy. Cả cuộc đời mình, gã luôn cố gắng kiềm chế nó nhưng không thành công. Gã có thể nhớ lúc mình bảy tuổi, bị bà hàng xóm phát đít vì tội nghịch diêm. Gã đã ra đường ném đá vào một chiếc xe chạy qua. Bố gã nhìn thấy chuyện đó và gầm thét trừng phạt bé Jacky. Lão quất đỏ mông Jack... rồi đánh tím mắt gã. Và rồi khi bố gã vào nhà, lèm bèm bật ti vi lên xem, Jack đã bắt gặp một con chó hoang và đánh cho nó một trận tơi tả. Có khoảng hai chục vụ choảng nhau ở trường cấp hai, lên cấp ba còn nhiều hơn, đủ cho gã hai lần bị đình chỉ học và vô số lần kỷ luật khác mặc dù điểm số gã rất tốt. Bóng bầu dục phần nào đã cho gã một cái van an toàn, mặc dù gã nhớ như in rằng mỗi phút giây từng trận đấu mình đều trải qua trong trạng thái cay cú cao độ, biến mọi cú chặn và xử lý bóng của đối phương thành tư thù. Gã đã là một cầu thủ giỏi, lọt vào nhóm những cầu thủ xuất sắc nhất trong các năm lớp mười một và mười hai ở cấp ba, gã cũng biết rất rõ là mình phải biết ơn cái tính nóng nảy ấy... hoặc đổ lỗi cho nó. Gã không thích bóng bầu dục. Trận đấu nào với gã cũng đầy thù ghét.

Mặc dù vậy, trải qua tất cả những chyện đó, gã không cảm thấy mình khốn nạn. Gã không thấy mình xấu tính. Gã luôn coi mình là Jack Torrance, một gã trai thực sự dễ thương chỉ cần phải tìm cách xử lý cái tính nóng nảy của mình trước khi bị nó đẩy rắc rối. Cũng như gã cần phải tìm cách trị thói nghiện rượu. Nhưng gã là một kẻ nghiện rượu đa cảm, cũng chắc chắn như việc gã là một kẻ nghiện rượu thích động tay chân - hai phiên bản đó mười mươi là bị trói buộc với nhau ở đâu đó sâu trong con người gã, nơi tốt nhất không nên nhìn đến. Nhưng gã không thực sự quan tâm liệu các nguyên nhân gốc rễ có tương quan với nhau hay tách biệt, có liên hệ gì đến xã hội, tâm lý hay sinh lý không. Gã đã phải đối mặt với hậu quả: những lần bị đét đít, các trận đòn của ông già, những vụ đình chỉ học và kèm theo đó là phải tìm cách giải thích mấy vết rách trên đồng phục do ẩu đả trên sân chơi, rồi sau này thì đến những trận váng vất sau say, cuộc hôn nhân ngày một lung lay, cái bánh xe đạp duy nhất với những nan hoa cong queo chĩa lên trời, cánh tay gãy của Danny. Và George Hatfield nữa, tất nhiên rồi.

Gã cảm thấy mình đã vô tình thọc tay vào cái tổ ong vò vẽ vĩ đại gọi là Cuộc Đời. Nếu xem như một hình ảnh ví von, thì nó thối hoăng. Nếu xem như một miêu tả ngắn gọn về hiện thực, thì gã thấy nó có thể chấp nhận được. Gã đã thọc tay qua một tấm lợp mục nát ngay giữa mùa hè và cả cánh tay đó đã chìm trong ngọn lửa công bình, thiêng liêng, thiêu cháy khả năng suy nghĩ tỉnh táo, biến quan niệm về hành vi văn minh thành lạc hậu. Có thể nào kỳ vọng ta vẫn hành xử như một con người biết tư duy khi tay bị những mũi kim khâu nóng đỏ đâm xuyên qua không? Có thể nào kỳ vọng ta sống trong tình thương của những người thân yêu nhất khi đám mây nâu sậm, giận dữ nổi lên từ cái lỗ trong khối sự sống đó (cái khối mà ta nghĩ là thật ngây thơ vô tội) và đâm thẳng vào ta không? Có thể nào bắt ta phải chịu trách nhiệm cho những hành động của mình trong khi ta chạy như điên trên mái nhà dốc, không biết mình chạy đi đâu, không nhớ ra rằng đôi chân hoảng loạn, vấp váp kia có thể dẫn mình đến rìa ống máng, xuống cái chết trên nền xi măng hai mươi mét bên dưới không? Jack nghĩ là không thể đâu. Khi ta vô tình thọc tay vào tổ ong vò vẽ, đâu phải ta thỏa thuận gì với quỷ dữ về việc đánh đổi cái tôi văn minh để lấy những thứ bề ngoài là tình yêu và vinh hoa phú quý. Việc đó cứ thế xảy đến với ta thôi. Một cách thụ động, không được quyền ý kiến, ta ngừng là một tạo vật của lý trí mà trở thành một tạo vật của đầu mút dây thần kinh; từ một người trình độ đại học thành một con vượn kêu rú chỉ trong vòng năm giây chóng vánh.

Gã nghĩ tới George Hatfield.

Cao lớn với cái đầu tóc vàng bù xù, George là một cậu trai đẹp tới mức gần như hỗn xược. Mặc quần bò bạc màu ôm chân cùng chiếc áo chui đầu của trường Stovington, với tay áo hờ hững kéo lên quá cùi chỏ để lộ hai cẳng tay rám nắng, thằng bé khiến Jack nhớ đến Robert Redford thời trẻ và gã nghĩ rằng George chả gặp mấy khó khăn khi cua gái - không khác gì tay quỷ sứ trẻ tuổi chơi bóng bầu dục tên Jack Torrance mười năm trước. Gã dám thừa nhận mình thực sự không hề ghen tức gì với George hoặc tị với thằng bé vì vẻ ngoài điển trai; trên thực tế, gã đã gần như hình dung một cách vô thức George như là hiện thân đời thực của nhân vật chính trong vở kịch gã viết, Gary Benson - cái phông nền hoàn hảo nhằm tôn lên một Denker già nua, suy sụp và tăm tối, kẻ dần dần trở nên cực kỳ căm ghét Gary. Nhưng còn gã, Jack Torrance, gã chưa từng cảm thấy như vậy về George. Nếu có thì gã phải biết. Gã khá chắc về chuyện đó.

George lướt êm ru qua các môn học ở Stovington. Vì là ngôi sao bóng đá và bóng chày, nên chương trình học của thằng bé khá nhẹ nhàng và nó hài lòng với các điểm C và thỉnh thoảng là một vài điểm B môn lịch sử hay thực vật học. Nó là một cầu thủ dũng mãnh trên sân nhưng lại là loại học sinh thụ động, vui vẻ trong lớp. Jack khá quen với loại học sinh này, phần nhiều nhờ kinh nghiệm thời trung học và đại học hơn là kinh nghiệm giảng dạy, vốn không phải do đào tạo bài bản mà có. George Hatfield là vận động viên. Nó có thể là một người bình tĩnh, ít đòi hỏi trong lớp, nhưng khi nhận được những kích thích cạnh tranh phù hợp (kiểu như mấy điện cực gí vào thái dương con quái vật của Frankenstein chẳng hạn, Jack mỉa mai nghĩ), nó có thể trở thành một hung thần tàn phá.

Vào tháng Một, George đã cùng hai mươi bốn sinh viên khác tham gia đội tranh biện. Nó đã khá thẳng thắn với Jack. Bố nó là một luật sư doanh nghiệp và ông ta muốn con trai nối tiếp sự nghiệp mình. Và vì không có thôi thúc cháy bỏng muốn làm việc gì khác, George sẵn lòng nghe theo. Điểm số nó không phải loại cao nhất, nhưng đây mới chỉ là trường dự bị và vẫn còn kha khá thời gian. Nếu bắt buộc, bố thằng bé có thể gõ vài cánh cửa. Khả năng thể thao của George vẫn sẽ mở được những cánh cửa khác. Nhưng Brian Hatfield cho rằng con trai mình cần phải vào đội tranh biện. Đó là một hoạt động tốt và là điều hội đồng xét tuyển trường luật nào cũng quan tâm. Vậy là George tham gia đội tranh biện, để rồi đến cuối tháng Ba Jack loại thằng bé ra khỏi đội.

Những cuộc tranh biện cuối mùa đông trong nhóm đã đốt lên tinh thần cạnh tranh của George Hatfield. Thằng bé trở thành một tay tranh biện có quyết tâm sắt đá, hết mình chuẩn bị các lập luận xây và chống của nó. Không quan trọng chủ đề là gì: hợp pháp hóa tài mà, khôi phục án tử hình hay hạn mức chống cạn kiệt dầu mỏ. George rất tiến bộ, thằng bé lại đủ hiếu chiến tới mức thực sự không quan tâm mình ở bên nào - một phẩm chất giá trị hiếm có, thậm chí ở cả những tay tranh biện trình độ cao, Jack biết. Tâm hồn của một ứng cử viên chính trị thực thụ và một tay tranh biện thực thụ không khác nhau nhiều lắm; cả hai đều quyết liệt nhắm đến cơ hội tốt nhất. Mọi thứ đến lúc này đều như mơ.

Nhưng George Hatfield nói lắp.

Tật này không xuất hiện trong lớp học, nơi George luôn lạnh lùng và bình thản (bất kể thằng bé đã làm bài tập về nhà hay chưa), chắc chắn cũng không phải trên các sân bóng Stovington, nơi sự lắm lời không được khuyến khích và đôi khi ta bị đuổi ra khỏi sân vì thảo luận nhiều quá.

Khi George bị cuốn sâu vào một cuộc tranh biện, cơn nói lắp liền xuất hiện. Thằng bé càng sốt sắng thì tình trạng càng tệ. Khi nó cảm thấy sắp hạ được đối thủ, dường như có một con kích động xuất hiện giữa trung tâm điều khiển lời nói và miệng thằng bé, khiến nó đờ ra mặc cho thời gian tiếp tục trôi. Một cảnh tượng không dễ nhìn.

“V-v-vậy tôi ng-ngh-nghĩ chúng ta phải nói rằng các t-t-t-ttình tiết trong v-v-vụ anh D-D-D-Dorsky đã bị x-x-xem như khkh-kh-không có gi-gi-giá trị bởi các qu-qu-quy-quyết định đưa ra tr-tr-trong…”

Chuông sẽ reo báo hết giờ và George sẽ xoay người giận dữ nhìn Jack, gã là người ngồi cạnh đồng hồ. Những lúc đó George thường đỏ mặt, bàn tay cầm những tờ giấy ghi chép run rẩy như lên cơn co giật.

Jack đã kiên nhẫn giữ George một thời gian dài sau khi gã đã loại gần hết những thành viên kém nhất, với hy vọng George sẽ cải thiện. Gã nhớ một buổi chiều muộn khoảng một tuần trước khi gã miễn cưỡng xuống tay. George nán lại sau khi những học sinh khác đã ra về, rồi giận dữ chất vấn Jack.

“Thầy đ-đặt đồng hồ bấm giờ sớm hơn lên.”

Jack ngẩng đầu khỏi chỗ giấy tờ gã đang xếp vào cặp và nhìn lên.

“George, em nói gì vậy?”

“Em không c-c-có đủ n-n-năm phút. Thầy rút bớt thời gian của em. Em đã nh-nh-nhìn đồng hồ.”

“Thời gian trên đồng hồ và đồng hồ bấm giờ có thể khác nhau một chút, George, nhưng thầy không hề chạm vào mấy cái kim chết tiệt ấy. Lời nói danh dự đấy.”

“Th-th-thầy có làm !

Cái nhìn đấu-tranh-đòi-quyền-lợi đầy hung hãn của George làm bùng lên cơn giận dữ trong Jack. Gã đã thôi uống được hai tháng, hai tháng dài đằng đẳng và gã đang tơi tả. Gã nỗ lực lần cuối kìm mình lại. “Thầy đảm bảo với em, George ạ, là thầy không làm thế. Là do em nói lắp. Em có biết nguyên nhân vì sao không? Em đâu có nói lắp trong lớp.”

“ E-em kh-không n-nói l-l-lắp! ”

“Hạ bớt giọng xuống nào.”

“ Thầy m-muốn xử em! Th-thầy kh-không m-m-muốn ch-cho e-em vào c-cái đ-đội trời đánh của thầy! ”

“Hạ bớt giọng xuống, tôi nói rồi. Hãy dùng lý lẽ để nói về chuyện này xem.”

“L-lẽ c-cái đ-đ-éo!”

“George, nếu em kiểm soát được tật nói lắp, thầy rất vui được có em trong đội. Em chuẩn bị rất tốt cho mọi bài thực hành và nắm rất vững kiến thức nền, có nghĩa là ít khi em bị bất ngờ. Nhưng những thứ đó sẽ không có nghĩa lý gì nhiều nếu như em không kiểm soát được vụ kia...”

“Em kh-kh-không nói lắp!” thằng bé gào lên. “Là th-thầy! N-n-nếu ng-người khác quản đ-đội tranh biện, em có thể...”

Sợi dây kiềm chế của Jack lỏng ra thêm một nấc.

“George, em sẽ không thể nào thành luật sư, dù là cho doanh nghiệp hay ở ngoài, nếu em không kiểm soát được tật đó. Luật không giống bóng bầu dục. Thực hành hai giờ mỗi tối cũng không được. Em sẽ làm gì nào, đứng trong buổi họp ban lãnh đạo mà nói: ‘gi-gi-giờ thì th-thưa các qu-qu-quý ông, về vụ v-v-vi phạm n-này...?”

Bất ngờ gã đỏ mặt, không phải vì giận dữ mà vì xấu hổ trước sự tàn nhẫn của chính mình. Trước mặt gã không phải một người đàn ông mà là một thằng nhóc mới mười bảy tuổi, đang phải đối mặt với thất bại lớn đầu tiên trong đời và có lẽ đang cầu viện Jack, theo cách duy nhất nó biết, để gã giúp nó tìm cách đối mặt.

George ném cho gã cái nhìn giận dữ cuối cùng, đôi môi nó méo xẹo, mấp máy trong khi lời lẽ dâng lên dồn đống đằng sau đó, tranh đấu tìm lối thoát ra.

“Th-tha-thầy đ-đặt nó sớm hơn lên! Thầy gh-ghét em vì thầy b-bi-biết... thầy biết... b-b...”

Với một tiếng thét không thành lời, thằng bé chạy ra khỏi lớp, sập cửa mạnh đến mức tấm kính lưới rung lên bần bật trong khung. Jack đúng đó, cảm thấy - hơn là nghe thấy - tiếng vọng đôi Adidas của George trên hành lang trống. Trong khi gã vẫn còn đang cố kiềm chế cơn giận, đồng thời thấy xấu hổ vì đã chế nhạo tật nói lắp của George, ý nghĩ đầu tiên đến với gã là một niềm hân hoan có chút bệnh hoạn: Lần đầu tiên trong đời George Hatfield muốn thứ mà nó không thể có được. Lần đầu tiên có thứ không chuẩn mà dù có bao nhiêu tiền bố nó cũng không thể chỉnh được. Không mua chuộc được trung tâm điều khiển lời nói. Không thể cho cái lưỡi thêm năm mươi đô một tuần cộng thêm tiền thưởng Giáng sinh nếu nó thôi không nẩy như cái kim máy phát gặp một rãnh đĩa lỗi. Rồi sau đó niềm hân hoan bị chôn vùi dưới nỗi hổ thẹn và gã cảm thấy y như khi mình làm gãy tay Danny.

Lạy Chúa, con không phải là thằng khốn mà. Làm ơn .

Cảm giác hạnh phúc bệnh hoạn khi George bỏ đi giống với Denker trong vở kịch hơn là Jack Torrance nhà biên kịch.

Thầy ghét em vì thầy biết. ..

Vì gã biết gì?

Gã biết điều gì về George Hatfield mà có thể khiến cho gã căm ghét nó? Rằng nó còn cả tương lai trước mặt? Rằng nó hơi giống Robert Redford và mọi đứa nữ sinh đều dừng chuyện trò khi nó nhào lộn hai vòng từ cầu nhảy bể bơi? Rằng nó chơi bóng đá và bóng chày với sự duyên dáng tự nhiên, không cần luyện tập?

Nực cười. Tuyệt đối vô lý. Gã chẳng ghen tức gì George Hatfield. Thực tình mà nói, gã thấy buồn vì tật nói lắp không may của George còn hơn cả chính thằng bé, vì George quả thật có thể trở thành một tay tranh biện xuất sắc. Và nếu như Jack có đặt đồng hồ sớm hơn lên - tất nhiên gã không hề làm thế - thì chỉ có thể vì gã và cả những thành viên khác của đội cảm thấy ngượng trước cảnh George vật vã, họ chịu đựng nó như thể chịu đụng diễn giả đêm hội lớp khi anh ta quên lời bài diễn văn. Nếu gã có đặt đồng hồ sớm hơn lên, thì cũng chỉ để... giải phóng cho George khỏi sự khổ sở của nó.

Nhưng gã không đặt đồng hồ sớm hơn lên. Gã khá là chắc chuyện đó.

Một tuần sau gã loại thằng bé, lúc đó gã đã kiềm chế được bản thân. Tất cả những lời la hét và đe dọa đều từ phía George. Một tuần sau nữa, khi ra bãi đỗ xe giữa buổi thực hành để lấy chồng sách tham khảo đựng trong cốp chiếc VW thì gã thấy George, đang quỳ một gối, món tóc vàng dài đung đưa trên mặt, một tay cầm con dao săn. Nó đang cứa lốp phải trước chiếc VW. Hai chiếc lốp sau đã bị băm nát, chiếc con bọ ngồi trên mấy cái lốp xẹp như một con chó nhỏ, mệt đừ.

Jack nhìn thấy ánh đỏ, ngoài ra gã gần như không nhớ gì chuyện xảy ra tiếp theo. Gã nhớ một tiếng gầm gừ trầm đục có vẻ như phát ra từ chính cổ họng gã, “Được rồi, George. Nếu mày muốn vậy, ra đây nhận hình phạt của mày này.”

Gã nhớ George ngẩng lên nhìn, giật mình hoảng sợ. Nó nói, “Thầy Torrance...” như thể để thanh minh mọi thứ chỉ là hiểu lầm, lốp xe đã bẹp sẵn khi nó đến, nó chỉ gạt sạch bùn trong rãnh lốp trước bằng mũi con dao nó tình cờ đem theo và...

Jack nặng nề bước tới, nắm tay giương ra phía trước và có vẻ như gã đang nhăn răng cười. Nhưng gã không chắc lắm chuyện đó.

Điều cuối cùng gã nhớ là George giơ dao lên nói, “Thầy đừng có lại gần thêm nữa...”

Và điều tiếp theo là cô Strong, giáo viên tiếng Pháp, giữ lấy tay Jack, khóc lóc la lên, “Thôi đi Jack! Thôi ngay! Anh giết thằng bé mất!”

Gã chớp mắt ngơ ngác nhìn quanh. Con dao săn đang nằm trên mặt đường nhựa bãi đỗ xe cách đó hơn một mét, lấp lánh vô hại. Chiếc Volkswagen của gã, con bọ tội nghiệp cũ nát của gã, cựu chiến binh sau nhiều cuộc đua say xỉn hoang dại nửa đêm, đang ngồi trên ba chiếc giày bẹp. Có một vết lõm mới trên chắn bùn phía trước bên phải và ở giữa chỗ lõm là gì đó trông như sơn đỏ hay máu. Gã bối rối trong một thoáng, gã nghĩ

(chúa ơi al chúng ta tông trúng nó thật rồi)

tới cái đêm hôm đó. Rồi gã đưa mắt sang nhìn George, thằng bé đang nằm chớp mắt đờ đẫn trên mặt đường nhựa. Nhóm tranh biện của gã đã ra ngoài và đứng túm tụm gần cửa nhìn George. Trên mặt thằng bé có máu từ một vết cắt ở đầu, trông không nặng lắm, nhưng máu còn chảy ra từ một bên tai George, có thể là do chấn động não. Khi George cố đứng dậy, Jack giãy khỏi cô Strong để tới chỗ thằng bé. George rúm người.

Jack đặt tay lên ngực George đẩy nó nằm xuống. “Nằm yên,” gã nói. “Đừng cố cử động.” Gã quay sang cô Strong, đang kinh hoàng nhìn hai người bọn họ.

“Cô Strong, làm ơn đi gọi bác sĩ trường giúp tôi,” gã nói với cô. Cô quay người bỏ chạy về phía văn phòng. Sau đó gã nhìn lớp tranh biện của mình, nhìn thẳng vào mắt chúng vì gã đã nắm quyền kiểm soát trở lại, hoàn toàn là chính mình, khi gã là chính mình thì không có anh chàng nào dễ thương hơn gã trong cả cái bang Vermont này. Chắc chắn chúng biết thế.

“Bây giờ các em có thể về,” gã nhẹ nhàng nói với chúng. “Mai ta gặp nhau.”

Nhưng đến cuối tuần ấy, sáu học sinh lớp tranh biện bỏ cuộc, trong đó có hai đứa xuất sắc nhất, nhưng tất nhiên chuyện chẳng ảnh hưởng gì mấy vì đến lúc đó gã cũng đã được thông báo là chính mình sẽ bỏ cuộc chơi.

Mặc dù vậy gã vẫn không uống, gã cho rằng điều đó có ý nghĩa gì đó.

Và gã không ghét George Hatfield. Gã chắc chắn thế. Gã không phải là người chủ động mà là kẻ bị động.

Thầy ghét em vì thầy biết. ..

Nhưng gã không biết gì. Không biết gì. Điều đó gã có thể thề trước Ngai vàng Chúa Toàn năng, cũng như gã có thể thề rằng mình chỉnh đồng hồ sớm hơn không quá một phút. Không phải vì căm ghét mà vì thương hại.

Hai con ong vò vẽ chậm chạp bò quanh trên mái nhà cạnh cái lỗ trong tấm che khe nối.

Gã nhìn chúng cho tới khi chúng giương mấy cái cánh trông quá yếu ớt để bay nhưng lại hiệu quả lạ kỳ và nặng nề bay vào ánh nắng tháng Mười, có lẽ tìm ai đó khác để mà đốt. Chúa đã thấy là nên trao cho chúng cái ngòi và Jack đồ rằng chúng phải dùng để đốt ai đó thôi.

Gã đã ngồi đây nhìn cái lỗ với điều bất ngờ đáng ghét bên trong và xói lại những ký ức cũ hết bao lâu rồi? Gã nhìn đồng hồ. Gần nửa tiếng.

Gã mò tới rìa mái nhà, thò một chân xuống trước, dò dẫm cho tới khi chân tìm thấy nấc thang trên cùng ngay dưới chỗ mái nhô ra. Gã có thể tới chỗ kho dụng cụ nơi gã cất quả bom diệt côn trùng trên một giá cao ngoài tầm với Danny. Gã có thể lấy nó, quay lại, khi đó bọn ong sẽ là lũ bị bất ngờ. Ta có thể bị đốt, nhưng ta cũng có thể đốt trả. Gã thực lòng tin tưởng điều đó. Chỉ hai giờ nữa cái tổ sẽ chỉ còn là mớ giấy bồi và Danny có thể để nó trong phòng nếu muốn - khi còn bé Jack cũng có một cái trong phòng, nó luôn thoang thoảng mùi khói củi và xăng. Danny có thể để cái tổ ngay trên đầu giường. Nó sẽ không làm hại được thằng bé.

“Mình đang khá lên.”

Âm thanh từ giọng nói của chính gã, đầy tự tin trong buổi chiều yên tĩnh, làm gã yên tâm cho dù gã không có ý định nói ra thành tiếng. Gã đang khá lên. Người ta có thể tốt nghiệp khỏi mái trường thụ động, tiến lên chủ động, có thể xem cái thứ trước đây từng đẩy mình đến bờ vực điên loạn như một thành tích vô thưởng vô phạt, có giá trị cùng lắm chỉ trong môi trường học thuật nào đó. Và nếu có nơi nào mà việc đó có thể thành hiện thực, thì chính là nơi này đây.

Gã xuống thang đi lấy quả bom. Bọn chúng sẽ phải trả giá. Chúng sẽ phải trả giá vì đốt gã.