Chương 20 Nói chuyện với Ullman
Thư viện công cộng Sidewinder là một tòa nhà nhỏ, cũ nát cách khu kinh doanh của thị trấn một khối nhà. Đây là một tòa nhà khiêm tốn phủ đầy dây leo, hai bên lối đi rộng bằng bê tông dẫn tới cửa chính phủ đầy xác hoa từ mùa hè. Trên bãi cỏ trước nhà là bức tượng đồng lớn của một vị tướng thời Nội Chiến mà Jack chưa từng nghe danh, dù khi còn thiếu niên gã từng là một tay biết tuốt về Nội Chiến.
Các bài báo lưu được cất dưới cầu thang. Bao gồm những bài từ báo Gazette của Sidewinder đã bị đình bản năm 1963, nhật báo Estes Park và tờ Camera của Boulder. Không có tờ báo Denver nào.
Jack thở dài, chọn các bài từ tờ Camera .
Các bài báo lưu từ năm 1965 trở đi thì được thay từ báo giấy sang các cuộn vi phim. (“Nhờ tài trợ liên bang,” người thủ thư tươi cười nói với gã. “Chúng tôi hy vọng lần giải ngân tới sẽ thay các bài từ năm 1958 đến 1964, nhưng tiền lúc nào cũng đến chậm, phải không? Anh hãy thận trọng chút nhé? Tôi biết anh sẽ cẩn thận mà. Cứ gọi tôi nếu anh cần gì nhé.”) Cái máy đọc duy nhất có một thấu kính không hiểu sao hơi méo mó, vậy nên đến lúc Wendy đặt tay lên vai gã - sau khi gã đã chuyển từ báo giấy sang được bốn mươi lăm phút - đầu gã đã giần giật đau.
“Danny đang ở trong công viên,” cô nói, “nhưng em không muốn con ở ngoài lâu quá. Anh còn bận khoảng bao lâu nữa?”
“Mười phút nữa,” gã nói. Thực ra gã đã truy được hết phần lịch sử hấp dẫn về Overlook - khoảng thời gian từ sau vụ xả súng băng đảng đến lúc vào tay của Stuart Ullman & Cộng sự. Nhưng gã vẫn thấy chưa muốn nói với Wendy.
“Cơ mà anh đang làm gì thế?” cô hỏi. Cô vò tóc gã trong lúc hỏi câu đó, nhưng giọng cô chỉ có nửa phần đùa bỡn.
“Anh tìm mấy chuyện cũ về Overlook thôi,” gã nói.
“Có vì lý do gì cụ thể không anh?”
“Không hẳn,
( mà sao cô lại quan tâm làm gì cơ chứ? )
anh chỉ tò mò thôi.”
“Anh tìm được gì hay không?”
“Không nhiều lắm,” gã nói, phải cố gắng để giữ cho giọng nói được vui vẻ. Cô ta đang thọc mạch, đúng kiểu cô ta vẫn luôn thọc mạch và mè nheo với gã hồi họ còn ở Stovington khi Danny vẫn nằm nôi. Anh đi đâu vậy Jack? Khi nào thì anh về? Anh có bao nhiêu tiền trong người? Anh định lấy xe đi à? Al có đi cùng với anh không? Một trong hai người bọn anh sẽ không uống rượu chứ? Liên hồi kỳ trận. Xin lỗi chứ, chính cô ta đã đẩy gã đến đường nhậu nhẹt. Có thể đấy không phải là nguyên nhân duy nhất, nhưng vì Chúa, ta hãy thành thực ở đây và công nhận nó là một trong những nguyên nhân xem nào. Mè nheo, mè nheo và mè nheo tới mức ta muốn cho cô ả một cú để cho cô ả ngậm miệng và chặn cái dòng câu hỏi
( Đi đâu? Khi nào? Bao nhiêu? Anh định? Anh sẽ? )
vô tận đó. Nó có thể cho ta một cơn
( đau đầu? váng vất sau say? )
đau đầu thứ thiệt. Cái máy đọc. Cái máy đọc chết tiệt với những dòng chữ biến dạng. Đó là lý do vì sao gã lại đang đau đầu đến mức đếch thể chịu nổi như vậy.
“Jack, anh ổn chứ? Trông anh nhợt nhạt lắm...”
Gã hất đầu tránh những ngón tay cô. “ Chả sao cả! ”
Cô rụt người lại vì ánh mắt nóng rực của gã và cố gắng nở ra một nụ cười ti hí. “Ừm... nếu anh ổn... em sẽ ra công viên chờ với Danny vậy...” Cô định cất bước đi, nụ cười tan thành một vẻ mặt đau đớn hoang mang.
Gã gọi theo cô, “Wendy?”
Từ chân cầu thang cô quay lại nhìn. “Gì vậy, Jack?”
Gã đứng dậy đi đến chỗ cô. “Anh xin lỗi nhé, em yêu. Có lẽ là anh không ổn lắm. Cái máy ấy... thấu kính nó bị méo. Anh thực sự đang rất đau đầu. Em có viên aspirin nào không?”
“Có chứ.” Cô lục lọi trong ví và lôi ra một lọ Anacin. “Anh giữ đi.”
Gã nhận lấy cái lọ. “Không có Excedrin à?” Gã nhìn thấy vẻ thoáng sững sờ trên mặt cô và hiểu ra sự tình. Ban đầu, đó đã chỉ là một câu đùa kiểu châm chích giữa hai người họ, trước khi vụ nhậu nhẹt trở nên nghiêm trọng đến nỗi không thể đùa được nữa. Gã từng tuyên bố rằng Excedrin là loại thuốc không kê toa duy nhất từng được phát minh có thể ngăn chặn tức thì con váng vất sau say. Chỉ duy nhất mình nó. Gã đã bắt đầu coi những cơn đau đầu sau đêm bí tỉ của mình là cơn đau đầu Excedrin số Vat 69 [12E] .
“Không có Excedrin đâu,” cô nói. “Xin lỗi.”
“Không sao,” gã nói, “thứ này là được rồi.” Nhưng tất nhiên là chúng chỉ vô dụng thôi và đáng lẽ cô ta cũng phải biết điều đó. Thỉnh thoảng cô ta như một con dở người ngu xuẩn chưa từng thấy...
“Anh muốn uống nước không?” cô vui vẻ hỏi.
( Không, tôi chỉ muốn cô CÚT MẸ NÓ RA KHỎI ĐÂY ĐI! )
“Anh sẽ uống ở chỗ cái vòi công cộng khi quay lên. Cảm ơn em.”
“Được rồi.” Cô bắt đầu đi lên cầu thang, đôi chân xinh đẹp chuyển động duyên dáng dưới chiếc váy len ngắn màu nâu. “Bọn em sẽ ở trong công viên.”
“Rồi.” Gã lơ đễnh nhét lọ Anacin vào trong túi, quay lại với cái máy đọc và tắt nó đi. Khi biết chắc cô đã rời đi rồi, gã cũng lên tầng. Nhưng Chúa ơi, cơn đau đầu này tệ kinh khủng. Nếu phải chịu đựng một màn tra tấn búa bổ như thế này, ít nhất ta cũng phải được làm vài ly để bù đắp lại chứ.
Gã cố gắng gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu, tâm trạng bực bội hơn bao giờ hết. Gã lại chỗ cái bàn chính, mân mê vỏ một vỉ diêm có số điện thoại trên đó.
“Cô này, cô có điện thoại trả phí nào không?”
“Không, anh ạ, nhưng anh có thể sử dụng điện thoại của tôi nếu gọi nội vùng”
“Tiếc quá, là gọi đường dài.”
“Thế thì chắc nhà thuốc sẽ là lựa chọn tốt nhất. Họ có một bốt điện thoại.”
“Cảm ơn.”
Gã ra ngoài và bước dọc lối đi, băng qua vị tướng Nội Chiến vô danh. Gã cất bước đi về phía khu kinh doanh, hai tay nhét túi quần, đầu nện thình thình như chuông chì. Bầu trời cũng xám xịt như chì; hôm đó là ngày mùng 7 tháng Mười một và tháng mới đến thì tiết trời cũng đã trở nên đầy hăm dọa. Đã có mấy trận mưa tuyết. Tháng Mười cũng có tuyết rơi, nhưng chỗ tuyết đấy đã tan đi. Các trận tuyết mới thì cứ bám lì ở lại, một lớp băng giá mỏng phủ lên mọi thứ - lấp lánh dưới ánh nắng như pha lê mong manh. Nhưng hôm nay không có nắng, thậm chí ngay khi gã đến được chỗ nhà thuốc, tuyết lại bắt đầu trút xuống.
Bốt điện thoại ở phía sau tòa nhà, lúc gã đi qua giữa một gian bày các loại thuốc độc quyền, tiền lẻ rung leng keng trong túi, gã nhác thấy những chiếc hộp trắng in chữ xanh lá cây. Gã mang một hộp đến quầy thu ngân, trả tiền và quay trở về với bốt điện thoại. Gã đóng cửa lại, đặt chỗ tiền lẻ cùng cái vỉ diêm của mình lên quầy và bấm số 0.
“Quý khách muốn gọi đi đâu?”
“Fort Lauderdale, Florida, thưa tổng đài.” Gã đưa cho cô ta số điện thoại đầu bên đó và số của bốt. Khi cô ta bảo với gã rằng phí sẽ là một đô chín mươi cho ba phút đầu tiên, gã thả tám đồng 25 xu vào trong khe, nhăn mặt mỗi lần tiếng chuông vang lên trong tai.
Sau đó, trong lúc đứng chờ với chỉ những tiếng lách cách xa xôi và âm thanh đường truyền kết nối, gã lấy lọ Excedrin màu xanh lá cây ra khỏi hộp, bật cái nắp trắng lên và thả miếng bông gòn xuống sàn bốt. Gã kẹp ống nghe điện thoại giữa tai và vai, lắc ra ba viên thuốc màu trắng và xếp chúng thành hàng trên quầy bên cạnh chỗ tiền lẻ còn lại của mình. Gã đậy nắp cái lọ lại và bỏ nó vào túi.
Ở đầu bên kia, điện thoại được nhấc máy ngay hồi chuông đầu tiên.
“Khu nghỉ dưỡng Surf-Sand đây, chúng tôi có thể giúp gì được quý khách?” giọng nữ vui tươi hỏi.
“Làm ơn cho tôi nói chuyện với quản lý.”
“Ý anh là ông Trent hay... ”
“Ý tôi là ông Ullman.”
“Theo tôi biết thì ông Ullman đang bận, nhưng nếu anh muốn tôi kiểm tra...”
“Tôi muốn. Nói với ông ta rằng người gọi là Jack Torrance & Colorado.”
“Xin anh đợi một chút.” Cô cho gã chờ máy.
Ác cảm của Jack đối với thằng oắt Ullman tự phụ, keo kiệt kia ùa về. Gã lấy một viên Excedrin trên quầy, nhìn ngắm nó một lát, đoạn bỏ nó vào miệng và bắt đầu nhai, chậm rãi và khoan khoái. Cái vị ùa về như ký ức, làm cho nước bọt gã ứa ra, hòa trộn giữa sung sướng và bất hạnh. Một vị đắng, khô, nhưng hấp dẫn. Gã nhăn mặt nuốt. Gã đã hình thành thói quen nhai aspirin thời còn uống rượu; từ đó đến nay gã không còn làm vậy nữa. Nhưng khi ta có một cơn đau đầu đủ tồi tệ - dù đó là váng vất sau say hay đau đầu kiểu này - thì nhai thuốc dường như khiến chúng phát huy tác dụng nhanh hơn. Gã đã đọc được ở đâu đó rằng nhai aspirin có thể gây nghiện. Mà gã đọc được điều ấy ở đâu vậy nhỉ? Gã nhíu mày, cố gắng suy nghĩ. Thế rồi Ullman nghe máy.
“Torrance à? Có chuyện gì thế?”
“Không có chuyện gì cả,” gã nói. “Lò hơi vẫn ổn và tôi thậm chí còn chưa kịp giết vợ mình. Tôi hoãn chuyện đó lại cho đến sau kỳ lễ, khi tình hình trở nên buồn tẻ.”
“Buồn cười đấy. Anh gọi điện làm gì thế? Tôi là một người...”
“Một người bận rộn, vâng, tôi hiểu điều đó. Tôi gọi để hỏi về một số điều mà anh không cho tôi biết trong bài giảng lịch sử về quá khứ vĩ đại và quang vinh của Overlook. Chẳng hạn như chuyện Horace Derwent bán nó cho một đám gian thương ở Las Vegas, những kẻ chuyền nó qua nhiều công ty ma đến nỗi ngay cả cơ quan thuế cũng không biết ai thực sự sở hữu nó. Về chuyện chúng chờ đợi cho đến khi thời cơ chín muồi rồi biến nó thành sân chơi cho các tay trùm Mafia, về chuyện nó phải đóng cửa vào năm 1966 khi một kẻ trong số đó lăn ra chết. Cùng với các vệ sĩ của mình, bấy giờ đang đứng trước cửa Suite Tổng Thống. Suite Tổng Thống ở Overlook quả là một căn phòng tuyệt vời. Wilson, Harding, Roosevelt, Nixon và Vito Dao Pha, đúng không?”
Một khoảnh khắc im lặng vì ngạc nhiên bao trùm đầu dây bên kia, rồi Ullman lặng lẽ nói, “Tôi không thấy điều đó có ảnh hưởng gì đến công việc của anh, anh Torrance. Nó...”
“Tuy nhiên, phần hay nhất xảy ra sau khi Gienelli bị bắn, anh có nghĩ vậy không? Thêm hai lần xào xáo nhanh nữa, đổi trắng thay đen, rồi Overlook đột nhiên thuộc sở hữu một cá nhân độc lập, một người phụ nữ tên là Sylvia Hunter... tình cờ lại chính là Sylvia Hunter Derwent, trong giai đoạn từ 1942 đến 1948.”
“Ba phút của anh đã hết,” tổng đài viên nói. “Hãy thông báo khi kết thúc cuộc gọi.”
“Anh Torrance thân mến ơi, tất cả những điều này đều là thông tin công khai thiên hạ đều biết cả... cũng là chuyện rất xưa rồi.”
“Tôi thì không biết,” Jack nói. “Tôi nghĩ cũng không nhiều người khác biết điều đó đâu. Toàn bộ vụ việc thì không. Có khi họ nhớ vụ bắn Gienelli, nhưng tôi nghĩ chưa có ai xâu chuỗi lại được tất cả những lần đổi chủ thần diệu và kỳ lạ mà Overlook đã trải qua từ năm 1945 đến nay. Và có vẻ như người nhà Derwent hoặc một bên có liên quan đến Derwent luôn trúng sổ xố. Sylvia Hunter đã điều hành cái gì ở đây trong năm 67 và 68 thế, anh Ullman? Nó đã là một cái nhà thổ, phải không?”
“Torrance!” Con sốc của ông ta lạch cạch truyền qua ba ngàn cây số cáp điện thoại mà chất lượng không giảm chút nào.
Jack mỉm cười, bỏ một viên Excedrin nữa vào miệng nhai.
“Bà ta bán nó đi sau khi một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ khá nổi tiếng qua đời vì trụy tim ở đó. Có tin đồn rằng ông ta được tìm thấy trong tình trạng lõa thể, chỉ mang một cặp tất đen cùng đai kẹp tất và đôi giày cao gót. Thực tế là giày da bóng.”
“Đó là một lời nói dối độc địa, khốn nạn!” Ullman gào lên.
“Thật thế ư?” Jack hỏi. Gã bắt đầu cảm thấy khá hơn. Cơn đau đầu đang dần lắng xuống. Gã lấy viên Excedrin cuối cùng và nhai nó, tận hưởng cái vị bột đắng khi viên thuốc nát vụn trong miệng mình.
“Đó là một sự cố rất không may,” Ullman nói. “Giờ thì anh muốn nói gì đây, Torrance? Nếu anh định viết một bài báo bôi nhọ bẩn thỉu... nếu đây mà là một ý tưởng tống tiền dại dột, ngu ngốc...”
“Không có gì như vậy đâu,” Jack nói. “Tôi gọi bởi lẽ tôi nghĩ anh đã chơi không công bằng với tôi. Và bởi vì...”
“Chơi không công bằng ư?” Ullman thốt lên. “Chúa ơi, anh nghĩ tôi sẽ tiết lộ một đống chuyện xấu cho người trông nom khách sạn biết à? Anh nghĩ mình là cái thá gì cơ chứ? Và đằng nào thì những câu chuyện xưa đấy ảnh hưởng được gì đến anh? Hay là anh nghĩ rằng có ma diễu lên diễu xuống dọc các hành lang chái Tây, trùm ga trải giường rên ư ử hả?”
“Không, tôi nghĩ chẳng có ma cỏ gì ở đây hết. Nhưng anh xới lên rất nhiều chuyện cá nhân của tôi ngày xưa trước khi trao cho tôi công việc. Anh chỉ trích tôi, vặn vẹo khả năng chăm sóc khách sạn của tôi như một thằng bé bị giáo viên mắng vì tội từ trong phòng thay đồ. Anh làm tôi bẽ mặt.”
“Tôi thật không tin nổi thái độ láo xược, sự mặt dày mày dạn khốn nạn của anh,” Ullman nói. Ông ta nghe như thể đang bị nghẹn. “Tôi muốn sa thải anh lắm rồi đấy. Có thể tôi sẽ làm vậy đấy.”
“Tôi nghĩ Al Shockley có thể sẽ phản đối đấy. Phản đối rất mạnh mẽ là khác.”
“Và tôi nghĩ có thể rốt cuộc anh cũng đã đánh giá quá cao sự nhiệt tình của ông Shockley dành cho mình rồi đấy, anh Torrance.”
Trong một thoáng, cơn đau đầu của Jack ập trở lại toàn lực và gã nhắm mắt vì đau. Gã nghe thấy bản thân hỏi, như thể từ đâu đó xa xăm, “Hiện tại ai đang sở hữu Overlook thế? Có phải vẫn là Derwent Enterprises không? Hay là anh quá cò con để biết?”
“Tôi nghĩ thế là đủ rồi, anh Torrance. Anh là nhân viên khách sạn, không khác gì một cậu hầu bàn hay nhân viên rửa bát trong nhà bếp. Tôi không có ý định...”
“Được rồi, tôi sẽ viết thư hỏi Al,” Jack nói. “Ông ta sẽ biết; xét cho cùng, ông ta có ghế trong Ban Giám đốc mà. Và có thể tôi sẽ thêm một đoạn tái bút nho nhỏ, bảo rằng...”
“Derwent không sở hữu nó.”
“Gì cơ? Tôi nghe không ra.”
“Tôi nói Derwent không sở hữu nó. Tất cả các cổ đông đều là dân bờ Đông. Ông bạn Shockley của anh sở hữu khối cổ phiếu lớn nhất, hơn ba mươi lăm phần trăm. Nếu ông ta có bất kỳ dây mơ rễ má nào với Derwent thì anh hẳn biết rõ hơn tôi.”
“Còn ai khác nữa?”
“Tôi không có ý định tiết lộ tên các cổ đông khác cho anh đâu, anh Torrance. Tôi tính sẽ báo lại toàn bộ vụ việc này cho...”
“Một câu hỏi nữa.”
“Tôi không có nghĩa vụ gì với anh cả.”
“Hầu hết lịch sử Overlook - cả tốt đẹp lẫn không tốt đẹp - đều được tôi tìm thấy trong một cuốn sổ nằm dưới tầng hầm. Quyển sổ lớn với bìa da màu trắng. Buộc bằng dây vàng. Anh có biết nó là của ai không?”
“Không hề.”
“Có khi nào nó từng thuộc về Grady không? Người trông nom đã tự sát ấy?”
“Anh Torrance,” Ullman nói với tông giọng băng giá vô cùng, “tôi còn không chắc rằng Grady biết đọc, nói gì tới việc đào xới lên những chuyện tệ hại mà nãy giờ anh lôi ra để làm lãng phí thời gian của tôi.”
“Tôi đang tính đến việc viết một cuốn sách về khách sạn Overlook. Tôi nghĩ rằng nếu xuất bản được, chủ sở hữu cuốn sổ sẽ muốn được cảm ơn ngay trang nhất.”
“Tôi tin việc viết một cuốn sách về Overlook sẽ là rất thiếu sáng suốt,” Ullman nói. “Đặc biệt là một cuốn sách được viết từ... òm, góc nhìn của anh.”
“Ý kiến của anh không hề làm tôi ngạc nhiên.” Bây giờ cơn đau đầu đã biến mất hoàn toàn. Chỉ có một cơn đau nhói qua ban nãy thôi, không còn gì nữa. Gã cảm thấy trí óc mình sắc bén và chuẩn xác đến từng milimét. Thường gã chỉ cảm thấy như thế khi công việc viết lách diễn ra hết sức trôi chảy hoặc khi gã đã bắt đầu ngà ngà sau ba ly. Đây là một điều khác về Excedrin mà gã đã quên; gã không biết nó có hiệu quả với người khác không, nhưng đối với gã thì nhai ba viên thuốc chẳng khác nào được một con phê tức thì.
Bây giờ gã nói, “Cái anh muốn là một thứ sách hướng dẫn được đặt viết để phát miễn phí cho khách khi họ đến nhận phòng. Một cuốn sách với rất nhiều hình ảnh bóng bẩy chụp những ngọn núi vào lúc bình minh và hoàng hôn đi kèm dòng chữ uốn lượn như kem vẽ bánh. Đồng thời có thêm một phần về những nhân vật thú vị từng nghỉ lại ở đó, tất nhiên ngoại trừ những người thực sự thú vị như Gienelli và bạn bè hắn.”
“Nếu tôi mà chắc chắn được một trăm phần trăm rằng mình có thể sa thải anh và vẫn giữ được việc thay vì chỉ chín mươi lăm phần trăm như bây giờ” Ullman nói với giọng cộc cằn, nghèn nghẹt, “tôi sẽ sa thải anh ngay lúc này, qua điện thoại. Nhưng vì vẫn còn năm phần trăm không chắc chắn, tôi tính sẽ gọi ông Shockley, ngay khi anh cúp máy... sớm thôi, hoặc tôi hết sức mong như vậy.”
Jack nói, “Sẽ không có gì trong cuốn sách đó sai sự thật đâu, anh biết mà. Chẳng việc gì phải tô hồng cho nó cả.”
( Tại sao mày lại cứ nhử hắn thế? Mày có muốn bị sa thải không đây? )
“Nếu chương Năm mà có nói về Giáo hoàng Rome làm trò đồi bại với linh hồn Đức Trinh nữ Maria thì tôi cũng không quan tâm,” Ullman nói, lên giọng. “Tôi muốn anh cút ra khỏi khách sạn của tôi!”
“Đây không phải là khách sạn của anh!” Jack hét lên, đập chiếc ống nghe xuống giá.
Gã ngồi thở dốc trên ghế, bấy giờ đã thấy hơi sợ,
(hơi sợ thôi hả? tầm bậy, sợ vãi ra quần ấy chứ)
thầm tự hỏi vì quái gì mà gã gọi cho Ullman.
( Mày đã lại mất kiềm chế rồi, Jack. )
Phải. Phải, đúng là gã đã mất kiềm chế. Phủ nhận cũng vô ích. Khốn nạn nhất là, gã không biết cái thằng oắt keo kiệt khốn kiếp đó có bao nhiêu ảnh hưởng đối với Al, gã cũng chẳng biết Al sẽ chấp nhận bỏ qua bao nhiêu trò ngu xuẩn của gã vì tình xưa nghĩa cũ. Nếu Ullman quả thực tài giỏi như đã tự xưng, nếu hắn ta đưa ra cho Al một tối hậu thư rằng nếu gã không bị đuổi thì hắn sẽ bỏ việc, liệu Al có buộc phải chấp nhận không? Gã nhắm mắt lại và thử mường tượng ra cảnh thông báo cho Wendy. Biết gì không, em yêu? Anh lại mất việc nữa rồi. Lần này anh phải vượt ba ngàn cây số cáp điện thoại để tìm người mà đánh, nhưng anh vẫn làm được đấy.
Gã mở mắt ra và lau miệng bằng khăn tay. Gã muốn làm một ly. Khốn kiếp, gã cần một ly. Có một quán ăn ngay cuối phố, hẳn là gã sẽ có đủ thời gian để làm một cốc bia trên đường ra công viên, chỉ một cốc cho đỡ thèm...
Gã bất lực siết chặt hai bàn tay.
Câu hỏi lại xuất hiện: Tại sao gã gọi Ullman? Số máy của Surf-Sand ở Lauderdale được viết trong một cuốn sổ nhỏ bên cạnh điện thoại và cái đài vô tuyến băng tần dân dụng trong văn phòng - số thợ ống nước, thợ mộc, thợ lắp kính, thợ điện, vân vân. Jack đã chép nó lên vỏ cái vỉ diêm khi vừa ngủ dậy, gã đã nghĩ gọi điện cho Ullman là một ý định vui vẻ và có cân nhắc. Nhưng với mục đích gì? Một lần, hồi còn nghiện rượu, Wendy đã buộc tội gã là muốn hủy hoại bản thân nhưng không đủ quyết tâm để muốn tự sát. Thế nên gã đã bày cách cho những người khác làm thay điều đó, lóc từng miếng một ra khỏi gã và gia đình họ. Có khi nào đó là sự thật không? Có phải đâu đó trong thâm tâm, gã sợ rằng có thể Overlook chính là những gì gã cần để hoàn tất vở kịch và nói chung là chấn chỉnh lại bản thân rồi sống tử tế hơn? Có phải gã đang tự tìm cách ngăn mình không? Ôi lạy Chúa, không, đừng để sự tình là như thế. Xin đùng.
Gã nhắm mắt lại và một hình ảnh ngay lập tức xuất hiện trên cái màn hình tối là mặt trong mí mắt gã: cánh tay thò qua cái lỗ giữa những tấm ván lợp để lôi tấm che khe nối đã ruỗng nát ra, cảm giác kim chích bất thình lình, tiếng rú đau đớn, giật mình của chính gã trong bầu không khí tĩnh lặng và dửng dung: Ối mả cha nó đồ chó đẻ khốn kiếp.. .
Thay thế bằng một hình ảnh hai năm trước, gã loạng choạng bước vào nhà lúc ba giờ sáng, say bí tỉ, vấp phải một cái bàn và ngã sõng soài trên sàn nhà, chửi thề, đánh thức Wendy bấy giờ đang nằm trên ghế sofa. Wendy bật đèn lên, nhìn thấy quần áo gã bị rách và lấm lem sau một vụ ẩu đả mờ mịt nào đó ở bãi đỗ xe một quán rượu bên kia ranh giới New Hampshire mà gã chỉ mang máng nhớ vài tiếng trước, máu khô đóng vảy dưới mũi, bấy giờ gã ngước lên nhìn vợ, đờ đẫn chớp mắt dưới ánh đèn như một con chuột chũi dưới nắng, còn Wendy nói giọng đều đều, Đồ khốn nạn, anh đánh thức Danny rồi đấy. Ngay cả nếu không quan tâm đến bản thân, chẳng lẽ anh cũng không thể quan tâm chút nào đến mẹ con tôi ư? Ôi, tại sao tôi lại phí hơi nói chuyện với anh nhỉ ?
Điện thoại reo, làm gã giật nẩy mình. Gã giật nó ra khỏi giá, đinh ninh bất chấp lý lẽ rằng đây hẳn là Ullman hoặc Al Shockley. “Sao?” gã quát.
“Phí gọi quá giờ của anh, thưa anh. Ba đô la năm mươi xu.”
“Tôi sẽ phải đổi mấy tờ một đô,” gã nói. “Đợi một phút nhé.”
Gã đặt điện thoại lên bệ, bỏ vào nốt sáu đồng 25 xu cuối cùng, sau đó đi ra quầy thu ngân để lấy thêm. Gã thực hiện cuộc giao dịch như một cái máy, tâm trí cứ quanh quẩn trong một vòng tròn khép kín, chẳng khác nào một con sóc trên bánh xe tập thể dục.
Tại sao gã lại gọi cho Ullman?
Bởi vì Ullman đã làm gã bẽ mặt ư? Trước đây gã từng bị bẽ mặt rồi, còn là dưới tay những tài năng thực sự - mà dĩ nhiên trong đó gã chính là Bậc Thầy. Chỉ để lên mặt với hắn ta, phơi bày sự đạo đức giả của hắn sao? Jack nghĩ gã đâu có nhỏ mọn đến nhường ấy. Tâm trí gã cố gắng bấu víu vào cuốn sổ, coi nó như một lý do chính đáng, nhưng cái cớ đó cũng không ổn. Khả năng Ullman biết chủ nhân của nó là ai không quá hai phần ngàn. Tại buổi phỏng vấn, hắn đã coi tầng hầm như một quốc gia xa lạ - thậm chí là một quốc gia tồi tệ kém phát triển nữa. Nếu thực sự muốn biết, gã đã gọi cho Watson. Số điện thoại để liên hệ ông ta trong mùa đông cũng có lưu trong cuốn sổ văn phòng. Ngay cả Watson cũng chưa chắc biết, nhưng hẳn là chắc hơn Ullman.
Và một điều ngu ngốc khác nữa, ấy là cho hắn ta biết về ý tưởng viết sách. Vô cùng ngu ngốc. Không chỉ đẩy bản thân vào thế dễ mất việc, gã có thể đã chặn luôn hàng loạt kênh thông tin cho mình, một khi Ullman gọi điện đi khắp nơi và báo mọi người đề phòng một đám dân New England hỏi hạn về khách sạn Overlook. Gã đã có thể lặng lẽ thực hiện việc nghiên cứu, gửi đi những lá thư lịch sự, thậm chí là sắp xếp các cuộc phỏng vấn vào mùa xuân... sau đó thì cười thầm trước cơn thịnh nộ của Ullman khi cuốn sách được xuất bản và bản thân gã đã an toàn cao chạy xa bay - Tác giả bịt mặt lại ra tay . Thay vào đó, gã thực hiện cuộc gọi vô nghĩa chết tiệt kia, mất kiểm soát, khiến cho Ullman trở nên thù địch và làm tay quản lý khách sạn bung sạch mọi thói độc đoán của hắn ra. Tại sao? Nếu đây không phải là nỗ lực nhằm khiến bản thân bị tống cổ khỏi cái công việc tốt đẹp mà Al đã kiếm cho gã, thì là gì?
Gã bỏ nốt số tiền vào khe và cúp điện thoại. Đây thực sự là kiểu hành động vô nghĩa mà gã có thể làm nếu say xỉn. Nhưng gã đã tỉnh rượu bao lâu nay; tỉnh như sáo.
Lúc bước ra khỏi nhà thuốc, gã bỏ thêm một viên Excedrin nữa vào miệng nhai, nhăn mặt nhưng vẫn lấy làm khoan khoái trước vị đắng.
Trên đường bên ngoài, gã gặp Wendy và Danny.
“A, bọn em vừa đi tìm anh,” Wendy nói. “Tuyết đang rơi đấy, anh biết không?”
Jack chớp mắt ngước lên nhìn. “Quả vậy.” Trời đang đổ tuyết dày. Phố Main của Sidewinder bấy giờ đã bị tuyết phủ kín, vạch phân cách giữa đường đã bị che khuất. Danny ngẩng lên bầu trời trắng xóa, há miệng thè lưỡi để hứng mấy bông tuyết lớn rơi xuống.
“Anh có nghĩ là đã vào mùa rồi không?” Wendy hỏi.
Jack nhún vai. “Anh không biết nữa. Anh đã hy vọng trời sẽ thương tình cho ta được thêm một hai tuần gì đó. Có thể chúng ta vẫn sẽ có thêm thời gian.”
Thương tình, chính thế.
( Tôi xin lỗi, Al. Xin hãy thương tình, hãy nhân từ. Xin ông hãy rủ lòng thương. Thêm một cơ hội nữa. Tôi thành thật xin lỗi... )
Gã - một người đàn ông trưởng thành - đã bao nhiêu lần, trong suốt bao nhiêu năm, xin người khác rủ lòng thương ban cho một cơ hội khác rồi? Gã bỗng dưng cảm thấy phát ốm với bản thân, ghê tởm đến nỗi có lẽ gã đã rên rỉ thành tiếng.
“Cơn đau đầu của anh thế nào rồi?” cô hỏi, săm soi gã.
Gã choàng một cánh tay quanh người cô và ôm cô thật chặt. “Đỡ hơn rồi. Nào, hai mẹ con, mình về nhà khi vẫn còn có thể thôi.”
Họ đi bộ trở lại chiếc xe tải khách sạn, bấy giờ đang đỗ chéo bên lề đường, Jack đi ở giữa, cánh tay trái quàng qua vai Wendy, tay phải thì nắm lấy tay Danny. Đây là lần đầu tiên gã gọi nơi đó là nhà, tốt hay xấu cũng chẳng sao.
Khi ngồi vào sau tay lái chiếc xe tải, gã nhận ra rằng mặc dù rất hứng thú với Overlook, gã lại không thích nó lắm. Gã không chắc là nơi này tốt cho vợ hay con trai hay chính bản thân gã. Có lẽ đó là lý do gã đã gọi cho Ullman.
Để bị sa thải khi vẫn chưa quá muộn.
Gã lùi xe tải ra khỏi chỗ đỗ và đưa họ rời thị trấn, hướng về vùng núi.