PHẦN NĂM CHUYỆN SINH TỬ Chương 38 Florida
Con trai thứ ba của bà Hallorann, Dick, trong bộ đồ đầu bếp trắng, với một điếu Lucky Strike phì phèo ở khóe miệng, đưa chiếc limo Cadillac lui ra khỏi chỗ đỗ phía sau siêu thị bán sỉ rau One-A và chầm chậm lái nó vòng ra bên kia tòa nhà. Masterton, giờ đã là đồng sở hữu nhưng vẫn đi với cái dáng lê chân điển hình mà ông ta đã quen từ trước Thế Chiến II, đang đẩy một thùng rau diếp vào trong tòa nhà cao, tối tăm.
Hallorann nhấn nút hạ cửa sổ bên ghế lái phụ xuống và hô vang, “Mấy quả bơ đó xếp cao quá đấy, đồ keo bẩn!”
Masterton ngoái nhìn qua vai, cười toe toét đến mức lộ cả ba chiếc răng vàng, hét lên đáp lời, “Vậy thì tôi biết chính xác ông có thể đút chúng vào đâu đấy, bạn hiền.”
“Tôi ghi sổ hết mấy câu kiểu đó đấy nhé, bạn hiền .”
Masterton giơ ngón tay thối lên với ông. Hallorann cũng giơ lại đáp lễ.
“Ông lấy dưa chuột rồi, phải không?” Masterton hỏi.
"Ừ.”
“Ngày mai nhớ quay lại sớm nhé, tôi sẽ để cho ông mấy củ khoai tây tươi ngon lành chưa từng thấy.”
“Tôi sẽ cử thằng cu đến,” Hallorann nói. “Tối nay ông có đến không?”
“Ông lo chuyện nước nôi chứ, ông bạn?”
“Chắc cú rồi.”
“Tôi sẽ đến. Trên đường về nhớ né mạn vùng thượng ra, nghe chưa? Mọi tay cớm từ đây cho đến St. Pete đều biết danh ông đấy.”
“Ông rành quá nhỉ?” Hallorann hỏi, toét miệng cười.
“Ông học cả đời cũng không biết nhiều bằng tôi đâu, bạn ơi.”
“Nghe lời thằng mọi đanh đá này à. Là ông thì ông có nghe không?”
“Đi đi, liệu mà biến khỏi đây trước khi tôi bắt đầu ném mớ rau diếp này vào mặt ông.”
“Giỏi thì ném luôn đi. Đồ gì miễn phí tôi cũng lấy hết.”
Masterton làm bộ như định ném một mớ. Hallorann cúi xuống, kéo cửa sổ lên và lái xe đi. Ông cảm thấy ổn. Khoảng nửa giờ qua, ông cứ ngửi thấy mùi cam, nhưng chuyện đó không có gì kỳ quái cả. Ông ở trong một siêu thị rau quả suốt nửa giờ qua mà.
Bấy giờ đang là bốn rưỡi chiều, múi giờ miền Đông, ngày đầu tiên của tháng Mười hai, Lão Chúa Mùa Đông ịn hẳn cặp mông băng giá xuống phần lớn đất nước này, nhưng ở đây thì đàn ông mặc áo hở cổ ngắn tay còn phụ nữ mặc áo váy mỏng mùa hè với quần cộc. Trên đỉnh tòa nhà First Bank of Florida, một chiếc nhiệt kế điện tử với những quả bưởi khổng lồ viền quanh đang liên tục nhấp nháy con số 27 o . Cảm ơn Chúa vì đã tạo ra Florida, Hallorann thầm nghĩ, dù có hơi muỗi mòng các thứ.
Ở phía sau chiếc limo là hai chục quả bơ, một thùng dưa chuột, một thùng cam, một thùng bưởi. Ba bao tải đầy hành tây Bermuda - loại rau ngọt ngào nhất mà Đức Chúa nhân từ từng tạo ra, một ít đậu hoa khá ngon - dùng để phục vụ cùng với món khai vị và chín trên mười lần sẽ được dọn đi trong tình trạng không ai động đến, cùng với một quả bí ngô Hubbard xanh duy nhất chỉ dành để tự nấu tự ăn.
Hallorann dừng ở làn xe rẽ chỗ đèn giao thông phố Vermont, khi mũi tên màu xanh lá cây xuất hiện, ông rẽ vào quốc lộ 219, tăng tốc lên sáu mươi cây số giờ và duy trì cho đến khi thành phố dần dần trở thành vùng ngoại ô trải dài với những trạm xăng, các quán Burger King và McDonald’s. Đơn đặt hàng ngày hôm nay cũng nhỏ thôi, ông đã có thể sai Baedecker đi xử lý, nhưng dạo gần đây Baedecker cứ làm nhặng lên với chuyện đi mua thịt và ngoài ra, Hallorann không bao giờ bỏ qua cơ hội được kẻ đối người đáp qua lại với Frank Masterton. Có lẽ tối nay Masterton sẽ đến để xem ti vi và nốc chỗ Bushmills của Hallorann, hoặc không. Thế nào cũng được. Nhưng gặp gỡ ông ta là việc quan trọng. Bây giờ thì mọi lần gặp nhau đều quan trọng, bởi vì họ không còn trẻ nữa. Dường như vài ngày qua ông đều nghĩ rất nhiều về điều đó. Không còn trẻ nữa, một khi ta đã gần sáu mươi tuổi (hay đã quá cái tuổi ấy - nếu nói sự thật), ta phải bắt đầu nghĩ về chuyện sinh tử. Ta có thể qua đời bất cứ lúc nào. Và ông cứ canh cánh nghĩ đến điều đó suốt cả tuần, nó không phải một ý nghĩ nặng nề mà là thực tế. Chết là một phần cuộc sống. Ta phải ý thức được điều đó nếu muốn làm một con người toàn diện. Và nếu cái chết của bản thân là một thực tế ta khó lòng hiểu nổi, ít nhất nó cũng chẳng đến nỗi không thể chấp nhận được.
Ông không thể hiểu tại sao mình cứ nghĩ mãi về điều ấy, nhưng lý do khiến ông phải đích thân xử lý cái đơn vặt này, đó là để ông có thể tạt qua cái văn phòng nhỏ ở trên quán bar và đồ nướng Franks. Bây giờ có một luật sư ở đó (ông nha sĩ năm ngoái từng ở đó hình như đã phá sản), một anh chàng da đen trẻ tuổi tên là McIver. Hallorann đã bước vào và nói với tay McIver này là ông muốn lập di chúc, không biết McIver có thể giúp được ông không? Chà, McIver hỏi, khi nào thì ông muốn có di chúc? Hôm qua, Hallorann đáp và ngửa đầu cười ha hả. Câu hỏi tiếp theo của McIver là ông có đang suy tính bất cứ điều gì phức tạp trong đầu không? Hallorann bảo không. Ông có chiếc Cadillac, tài khoản ngân hàng riêng - khoảng chín ngàn đô la - một tài khoản thanh toán nhỏ và một tủ quần áo. Ông muốn tất cả được để lại cho em gái mình. Và nếu em gái ông qua đời trước ông thì sao? McIver hỏi. Đừng bận tâm, Hallorann nói. Nếu điều đó xảy ra, tôi sẽ lập một di chúc mới. Giấy tờ được hoàn tất và ký trong vòng chưa đầy ba giờ - luật sư mà nhanh nhạy thật - và hiện đang nằm trong túi ngực Hallorann, nó được gấp lại và bỏ trong một phong bì màu xanh cứng với chữ DI CHÚC viết bằng các ký tự tiếng Anh kiểu xưa ở bên ngoài.
Ông không thể hiểu tại sao ông lại chọn cái ngày nắng ấm áp này, khi bản thân đang cảm thấy rất khỏe khoắn, để đi làm một việc mình đã trì hoãn suốt nhiều năm, nhưng nỗi thôi thúc ập đến và ông đã không gạt nó đi. Ông quen với việc làm theo linh cảm rồi.
Bây giờ ông đã ra hẳn khỏi thành phố. Ông cho chiếc limo tăng lên một trăm cây số giờ vượt ngưỡng quy định và để nó đi với tốc độ đó ở làn đường bên trái, làn có phần lớn xe cộ đi về phía Petersburg. Dày dạn kinh nghiệm, ông biết rằng chiếc limo vẫn sẽ vững như bàn thạch kể cả khi phóng với vận tốc một trăm bốn mươi, ngay cả tốc độ hai trăm dường như cũng chẳng khiến nó chao đảo lắm. Nhưng chuỗi ngày ngang tàng của ông đã qua lâu rồi. Ý nghĩ cho chiếc limo phóng thẳng một đường với tốc độ hai trăm chỉ khiến ông thấy sợ hãi. Ông đang già đi.
( Chúa ơi, mấy quả cam kia hăng quả. Không biết mùi có bay hết không nhỉ? )
Côn trùng đập vào kính xe. Ông vặn đài sang một kênh nhạc soul Miami và nghe thấy cái giọng nhẹ nhàng, buồn bã của Al Green.
“Đẹp làm sao lúc hai ta bên nhau, Giờ thì đã muộn và mình sắp phải chia xa...”
Ông hạ kính cửa sổ, hất mẩu thuốc lá ra ngoài, rồi cho kính xuống thấp hơn nữa để xua bớt mùi cam. Ông nhịp ngón tay trên bánh lái và lẩm bẩm theo tiếng nhạc. Cái mề đay Thánh Christopher treo trên gương chiếu hậu nhẹ nhàng đung đưa.
Bất chợt mùi cam nồng hẳn lên và ông biết nó đang ập đến, một cái gì đó đang ập đến với ông. Ông nhìn thấy đôi mắt mình trong gương chiếu hậu: mở to, đầy ngạc nhiên. Và rồi nó ập đến tức thì, thành một vụ nổ khổng lồ lấn át hết mọi thứ khác: tiếng nhạc, con đường phía trước, nhận thức lơ đăng của ông về việc mình là một cá thể con người hiếm có. Cứ như thể ai đó đã gí sát đầu ông một khẩu súng tâm linh và bắn vào ông tiếng hét như một viên đạn cỡ.45.
( !!!ÔI DICK ƠI BÁC LÀM ƠN LÀM ƠN LÀM ƠN HÃY ĐẾN ĐI!! )
Chiếc limo bấy giờ vừa mới lên ngang hàng với một chiếc Pinto bán tải được một người đàn ông mặc quần áo công nhân cầm lái. Gã công nhân nhìn thấy chiếc limo trượt vào làn đường bên mình thì nhấn còi. Khi chiếc Cadillac tiếp tục trượt sang, gã liếc nhìn tài xế và thấy một người da đen to lớn ngồi thẳng đơ đằng sau tay lái, mắt ông ta lơ đãng nhìn lên. Về sau gã công nhân bảo với vợ rằng gã biết, đó thực chất chỉ là một trong những kiểu tóc mốt mà đám mọi đen ai cũng để, nhưng vào thời điểm ấy, toàn bộ đám tóc trên đầu lão mọi trông như đang dựng đứng hết cả lên. Gã cứ tưởng rằng lão đen đang lên cơn đau tim.
Gã công nhân phanh gấp, tụt lùi về sau vào cái vùng may mắn là vẫn còn trống xe. Phần đuôi chiếc Cadillac là là phía trước gã, chiếc xe vẫn đang tiếp tục lấn qua và gã công nhân nhìn một cách kinh hãi bàng hoàng bộ đèn hậu dài hình tên lửa lọt hẳn vào trong làn của mình, cách cản trước xe gã không quá nửa phân.
Gã công nhân, vẫn tiếp tục nhấn còi, tạt sang trái rồi vòng lên bên cạnh chiếc limo đang say xỉn đánh võng. Gã ngỏ lời mời tài xế chiếc limo thực hiện hành vi giao cấu bất hợp pháp với chính lão. Quan hệ bằng miệng với đủ thứ loài gặm nhấm và chim chóc. Gã rành mạch đề xuất rằng tất cả những người mang dòng máu da đen hãy trở về lục địa quê hương đi. Gã bày tỏ niềm tin chân thành về nơi mà linh hồn lão tài xế limo sẽ đến lúc lão sang thế giới bên kia. Gã chốt lại bằng cách nói rằng gã tin mình đã gặp mẹ lão tài xế trong một cái nhà thổ ở New Orleans.
Thế rồi gã vượt lên trước, thoát khỏi vòng nguy hiểm và bất chợt nhận ra mình đã đái ướt quần.
Trong tâm trí Hallorann, ý nghĩ kia cứ lặp đi lặp lại
( LÀM ƠN HÃY ĐẾN ĐI MÀ BÁC DICK ƠI LÀM ƠN HÃY ĐẾN ĐI MÀ BÁC DICK ƠI )
nhưng nó bắt đầu mờ dần hệt như một đài phát thanh lúc ta gần ra khỏi giới hạn khu vực phát sóng. Ông lờ mờ nhận thấy rằng chiếc xe mình đang lướt dọc phần vai đường không rải nhựa với vận tốc chỉ hơn tám mươi cây một giờ. Ông đưa xe vào lại trong đường, cảm thấy phần đuôi xe đong đưa một thoáng trước khi ông về lại được mặt đường nhựa.
Có một cửa hàng Xá xị A/W ngay phía trước. Hallorann bật đèn xi nhan và rẽ vào đó, tim đập thình thịch trong lồng ngực, mặt xám ngoét bệnh hoạn. Ông rẽ vào một ô đỗ xe, lấy khăn tay ra khỏi túi và lau trán.
( Ôi Chúa ơi! )
“Ông gọi gì?”
Giọng nói làm ông giật mình, dù đó không phải là giọng Chúa mà là giọng một cô phục vụ dễ thương, đứng bên cửa sổ đang mở ở phía ông với một cuốn sổ ghi đơn.
“À, cưng, cho một cốc xá xị kem. Hai muỗng kem vani nhé?”
“Vâng, thưa ông.” Cô bỏ đi, hông đong đưa quyến rũ bên dưới bộ đồng phục đỏ.
Hallorann dựa lưng vào ghế da và nhắm mắt lại. Không còn nghe thấy gì nữa. Trong khoảng thời gian lúc ông tấp vào đây và cho cô phục vụ biết mình gọi gì, chút dư âm của nó cũng đã tan biến. Tất cả những gì còn lại là một cơn đau đầu bệnh hoạn, nặng nề, như thể não ông đã bị xoắn lại và vắt kiệt rồi phơi lên cho khô. Giống như cơn đau đầu mà ông đã lãnh phải khi để thằng bé Danny ấy dùng năng lực thị kiến của nó để giao tiếp với mình tại Khách sạn Lố bịch của Ullman.
Nhưng lần này âm thanh lớn hơn hẳn. Khi ấy, thằng bé chỉ chơi đùa với ông. Lần này là hoảng loạn thuần túy, mỗi chữ đều được gào tướng lên trong đầu ông.
Hallorann nhìn xuống cánh tay mình. Chúng đang tắm trong ánh nắng nóng bỏng, thế nhưng vẫn đang nổi đầy da gà. Ông nhớ mình từng bảo thằng bé hãy cứ gọi nếu nó cần giúp đỡ. Và bây giờ thằng bé đang gọi rồi.
Ông bất chợt tự hỏi sao mình lại có thể bỏ mặc thằng bé trên đó, trong khi nó có thị kiến mạnh như vậy. Kiểu gì cũng sẽ xảy ra rắc rối, có khi còn là rắc rối tệ hại.
Ông bất chợt vặn khóa chiếc limo, cài số lùi và lui nó ra ngoài đường cao tốc, bánh xe nghiến kin kít. Cô phục vụ với cặp hông đong đưa đứng dưới cổng vòm cửa hàng A/W, hai tay đang nâng một cái khay đặt cốc xá xị kem.
“Ông bị làm sao đấy, cháy nhà à?” cô hét lớn, nhưng Hallorann đã biến mất.
Người quản lý là một tay tên Queems, khi Hallorann đến thì Queems đang trò chuyện với nhà cái. Hắn muốn cược tổ hợp bốn ngựa ở Rockaway. Không, không chơi cược bất chấp thứ tự, không chơi cược chính xác thứ tự, không chơi cược xiên, không chơi cược xéo con mẹ gì hết. Chỉ cược tổ hợp bốn ngựa kinh điển, sáu trăm đô cho con chiến thắng. Và đội Jets vào Chủ nhật. Nói đội Jets đấu với đội Bills là thế nào? Không biết đội Jets sẽ đấu với ai à? Năm trăm, chênh lệch bảy điểm. Lúc Queems gác máy, hắn trông có vẻ bực bội, Hallorann hiểu làm sao mà một kẻ kiếm được năm mươi ngàn đô mỗi năm nhờ điều hành cái spa nhỏ này mà vẫn phải mặc bộ com lê mòn đũng. Hắn nhìn Hallorann với một con mắt hãy còn đỏ ngầu vì nốc quá nhiều Bourbon đêm qua.
“Có vấn đề à, Dick?”
“Vâng, thưa ông Queems, tình hình có vẻ là vậy. Tôi cần xin nghỉ ba ngày.”
Có một bao Kent trong túi áo sơ mi màu vàng mỏng dính của Queems. Hắn lấy một điếu mà không lôi cả bao, chỉ nhón tay rút nó ra và gắt gỏng cắn vào cái đầu lọc Micronite. Hắn châm thuốc bằng chiếc bật lửa Cricket đặt trên bàn.
“Tôi cũng vậy,” hắn nói. “Nhưng anh có chuyện gì thế?”
“Tôi cần ba ngày,” Hallorann lặp lại. “Là chuyện thằng con nhà tôi.”
Mắt Queems nhìn xuống bàn tay trái Hallorann, không có nhẫn gì cả.
“Tôi đã ly dị từ năm 1964 đến nay, Hallorann kiên nhẫn nói.
“Dick, anh biết cuối tuần tình hình ra sao mà. Chúng ta đầy khách. Chật cứng. Kể cả chỗ giá rẻ. Thậm chí Phòng Florida ta còn chật kín vào tối Chủ nhật. Thế nên cứ lấy đồng hồ, ví và quỹ hưu trí của tôi đi. Trời ạ, anh thậm chí có thể lấy cả vợ tôi nữa, nếu anh chịu được cảnh nằm gai nếm mật. Nhưng xin đừng bảo tôi cho nghỉ. Thằng nhỏ sao thế, bệnh à?”
“Vâng,” Hallorann nói, vẫn đang cố gắng hình dung mình vặn vẹo một chiếc mũ vải rẻ tiền và đảo mắt. “Nó bị bắn.”
“Bị bắn!” Queems nói. Hắn đặt điếu Kent vào một cái gạt tàn mang ấn chương đội bóng Đại học Mississippi, nơi hắn tốt nghiệp quản trị kinh doanh.
“Vâng,” Hallorann buồn bã nói.
“Tai nạn săn bắn à?”
“Không” Hallorann nói và để cho giọng mình giảm xuống thành một giọng trầm, khản đặc hơn. “Jana, bả sống với một gã tài xế xe tải. Một tên da trắng. Hắn bắn thằng cu nhà tôi. Nó đang ở trong bệnh viện tại Denver, Colorado. Tình trạng nguy kịch.
“Làm thế quái nào mà anh biết tin? Tôi tưởng anh đi mua rau cơ mà.”
“Vâng, đúng vậy.” Ông đã tạt qua văn phòng Western Union ngay trước khi tới đây để đặt thuê sẵn một chiếc xe với hãng Avis tại Sân bay Stapleton. Trước khi rời đi, ông đã thó một tờ biên đơn Western Union. Giờ thì ông lấy tờ đơn trống nhàu nát gấp lại từ trong túi mình ra và lia nó trước đôi mắt đỏ ngầu của Queems. Ông bỏ nó lại vào túi và, để giọng mình hạ xuống thêm một nấc nữa, nói rằng, “Jana đã gửi nó. Nó đợi sẵn trong hộp thư lúc tôi trở về ban nãy.”
“Trời đất. Lạy Chúa,” Queems nói. Mặt hắn căng hẳn lại, bộc lộ một nét lo lắng mà Hallorann chẳng còn lạ gì. Nét biểu cảm đó là phiên bản gần sát nhất với “sự cảm thông” mà một người da trắng tự coi bản thân là “giỏi đối đãi với dân da màu” có thể trưng ra được khi đối tượng là một người da đen hay là thằng con trai đen bịa đặt của ông ta.
“Ừ, được rồi, anh cứ đi đi,” Queems nói. “Chắc Baedecker sẽ có thể tiếp quản trong ba ngày. Thằng hầu bàn có thể giúp một tay.”
Hallorann gật đầu, để mặt mình tiếp tục dài thuỗn ra, nhưng ý nghĩ về việc cậu hầu bàn giúp Baedecker khiến ông thầm toét miệng cười. Ngay cả vào ngày lành tháng tốt thì Hallorann cũng không tin cậu chàng hầu bàn có thể tè trúng vào bồn tiểu ngay lần xịt đầu tiên.
“Tôi muốn hoàn trả lại tiền lương trong tuần này,” Hallorann nói. “Toàn bộ khoản đấy. Tôi biết mình làm thế này là gây khó khăn cho ông lắm, ông Queems à.”
Biểu cảm của Queems càng trở nên căng thẳng hơn; trông như thể hắn bị mắc xương cá trong cổ họng. “Chúng ta có thể nói về vụ đó sau. Anh đi sửa soạn đi. Tôi sẽ nói chuyện với Baedecker. Muốn tôi đặt chỗ máy bay trước cho anh không?”
“Không cần đâu, tôi sẽ tự làm.”
“Được rồi.” Queems đứng dậy, chân thành nghiêng về phía trước và hít phải một luồng khói bốc lên từ điếu Kent. Hắn ho khù khụ, khuôn mặt trắng gầy gò đỏ bừng lên. Hallorann cố hết sức giữ vẻ mặt buồn bã. “Tôi hy vọng mọi chuyện ổn cả, Dick à. Nhớ gọi điện khi anh có tin gì nhé.”
“Vâng.”
Họ bắt tay nhau qua bàn.
Hallorann xuống tầng trệt và băng qua khu nhà cho người làm thuê trước khi phá ra cười ha hả, rung cả đầu. Ông vẫn đang toét miệng cười và lau cặp mắt ứa nước bằng khăn tay thì mùi cam xuất hiện, nồng nặc đến phát mửa, rồi tràng thông điệp theo liền sau nó giáng vào đầu ông, khiến cho ông lảo đảo như say, đập lưng vào bức tường trát vữa hồng.
(!!!ĐẾN ĐI BÁC DICK ƠI ĐẾN ĐI ĐẾN GẤP!!!)
Ông hồi phục từng chút một, cuối cùng thì cũng cảm thấy đủ sức leo lên cầu thang bên ngoài dẫn đến căn hộ riêng. Ông giấu chìa khóa dưới tấm thảm cói chùi chân và, khi cúi xuống để lấy nó, một thứ rơi ra khỏi túi trong, đáp xuống mặt sàn gỗ tầng hai với một tiếng thịch tẻ nhạt. Tâm trí ông vẫn còn tập trung vào cái giọng đã run rẩy truyền qua đầu mình đến nỗi trong một thoáng, ông chỉ có thể đờ đẫn nhìn cái phong bì màu xanh, chẳng hiểu nó là gì.
Thế rồi ông lật nó lại và chữ DI CHÚC màu đen ngoằn ngoèo đập vào mắt.
(Ôi Chúa ơi, hóa ra là như vậy à? )
Ông không biết. Nhưng cũng có thể lắm. Suốt cả tuần, ý nghĩ về cái chết của chính mình cứ lỏn vỏn trong tâm trí ông như một... chà, như một
( Nào, nói toạc ra đi )
như một điềm báo.
Cái chết ư? Trong một khoảnh khắc, cả cuộc đời ông như lóe lên trước mắt, không phải theo kiểu điểm lại quá khứ, không có đồ hình thể hiện những thăng trầm mà Dick, người con trai thứ ba của bà Hallorann, từng trải qua, mà chỉ là cuộc sống ông hiện tại. Không lâu trước khi viên đạn đưa ông xuống nấm mồ tử vì đạo, Martin Luther King nói với mọi người rằng mình đã lên được ngọn núi. Dick không thể tuyên bố điều tương tự. Không có núi non gì cả, nhưng ông đã đến được một cao nguyên đầy nắng sau nhiều năm đấu tranh. Ông có những người bạn tốt. Ông có đủ mọi nguồn giới thiệu mình cần để có thể kiếm được việc ở bất cứ đâu. Khi muốn làm tình thì, ái chà, ông có thể tìm được một người thân thiện không hỏi han gì hết và cũng không lằng nhằng rùm beng về ý nghĩa mọi chuyện. Ông đã chấp nhận bản chất da đen của mình - chấp nhận một cách vui vẻ. Ông đã ngoài sáu mươi và, cảm ơn Chúa, đang sống một cuộc đời thư thái.
Liệu ông có đánh liều đặt dấu chấm hết cho tất cả những điều ấy - đặt dấu chấm hết cho chính mình - vì ba người da trắng mà ông thậm chí còn không quen không biết?
Nhưng đó là một lời nói dối, phải không?
Ông biết thằng bé. Họ đã chia sẻ với nhau theo cách mà ngay cả những người bạn chí cốt đã chơi với nhau tận bốn mươi năm cũng không thể làm nổi. Ông biết thằng bé và thằng bé biết ông, bởi vì mỗi người họ đều có một thứ tương tự ngọn đèn pha trong đầu, một thứ họ không hề hỏi xin, một thứ chỉ đơn thuần được ban cho họ.
( Không, mi chỉ có đèn pin, nó mới là người có đèn pha. )
Và đôi khi ngọn đèn đó, khả năng thị kiến đó, xem chừng là một điều tốt đẹp. Ta có thể chọn trúng ngựa để cược hoặc, như thằng bé đã nói, ta có thể nói cho bố mình biết cái rương của ông ở đâu khi ông không tìm thấy nó. Nhưng đó chỉ là phần gia vị, chỗ nước xốt rưới lên trên món rau trộn, còn ở bên dưới, trong món rau trộn đó, số lượng đậu tằm đắng cũng nhiều chẳng kém gì dưa chuột mát lạnh. Ta có thể nếm được nỗi đau và cái chết và nước mắt. Bây giờ thằng bé đang bị kẹt ở nơi đó và ông sẽ đi. Vì thằng bé. Vì khi trò chuyện cùng nó, họ chỉ khác màu da nếu sử dụng miệng mình. Thế nên ông sẽ đi. Ông sẽ làm những gì có thể, vì nếu không, thằng bé sẽ chết ngay trong đầu ông.
Nhưng, vì là con người, ông không thể không cay đắng ước giá mà trách nhiệm chưa bao giờ bị dồn sang cho mình.
( Bà ta bắt đầu bước ra và đuổi theo. )
Ông đang nhồi một bộ quần áo vào trong túi hành lý thì ý nghĩ kia xuất hiện, khiến ông cứng người với sức mạnh của ký ức, hệt như mỗi khi ông nhớ về chuyện đó. Ông cố gắng càng hạn chế nghĩ về nó càng tốt.
Ả phục vụ phòng, tên là Delores Vickery, đã bị kích động. Đã kể lại chuyện gì đó cho các nữ phục vụ phòng khác và, tệ hơn, cả với một số vị khách nữa. Khi Ullman hay tin, điều mà ả phục vụ phòng ngớ ngẩn ấy đáng lẽ phải biết trước, hắn đã đuổi ả ngay lập tức. Ả đã tìm đến Hallorann để than khóc, không phải vì bị đuổi việc, mà là vì những gì ả đã thấy trong căn phòng trên tầng hai. Ả nói mình đã đi vào phòng 217 để thay khăn tắm và ở đó, bà Massey nằm chết trong bồn. Tất nhiên, như vậy là không thể. Bà Massey đã được kín đáo đưa đi vào ngày hôm trước và thậm chí ngay vào lúc đó bà ta đang trên máy bay quay về New York rồi - trong khoang chở hàng thay vì khoang hạng nhất bà ta vẫn hay đi.
Hallorann không thích Delores mấy, nhưng buổi tối hôm đó, ông đã đi lên kiểm tra. Ả phục vụ phòng là một phụ nữ hai mươi ba tuổi với làn da bánh mật, có nhiệm vụ phục vụ bàn ăn vào thời điểm gần cuối mùa hoạt động, khi công việc kinh doanh trầm xuống. Hallorann đánh giá ả sở hữu một chút khả năng thị kiến, kỳ thực không hơn một đốm tí hon lấp lánh; cứ mỗi khi cái gã mặt lấm lét nọ cùng mụ tình nhân mặc áo khoác vải bọt màu đến ăn tối, là Delores sẽ đổi một bàn mình quản để được phục vụ bàn họ. Cái tay lấm lét nhỏ con ấy thường boa một tờ mười đô dưới đĩa của mình, thế là đã đủ thiệt cho con bé phục vụ lúc đầu đồng ý đổi bàn rồi, nhưng tệ hơn là Delores cứ đem chuyện ấy ra khoe mãi. Bản tính ả biếng nhác, kẻ lười chảy thây ở trong một cơ sở được điều hành bởi người không chấp nhận bọn lười nhác. Ả thường ngồi trong một cái buồng cất đồ vải lanh, đọc tạp chí tình cảm và hút thuốc, nhưng cứ mỗi khi Ullman đi tuần đột xuất (và khốn khổ cho những ai bị thằng cha ấy bắt quả tang đang nghỉ chân), hắn luôn nhìn thấy cô ả làm việc chăm chỉ, tờ tạp chí giấu biến dưới mấy tấm chăn trên một ngăn kệ cao, cái gạt tàn thì được nhét kín trong túi đồng phục. Ừ, Hallorann thầm nghĩ, ả là một kẻ biếng nhác làm ăn cẩu thả và những cô phục vụ phòng khác rất căm ả, nhưng Delores sở hữu được tia sáng thị kiến nhỏ nhoi ấy. Nó luôn giúp cho mọi chuyện thuận buồm xuôi gió với ả. Nhưng thứ Delores nhìn thấy trong phòng 217 đã khiến ả sợ hãi đến mức ả mừng hơn bắt được vàng khi nhận tiền thôi việc Ullman đưa cho và rời đi.
Tại sao ả lại tìm đến chỗ ông? Những người có thị kiến sẽ nhận ra được nhau, Hallorann thầm nghĩ.
Thế là đêm hôm đó, ông đã lên tầng và bước vào căn phòng mà ngày hôm sau sẽ có khách mới đến ở. Ông đã sử dụng chìa khóa tổng trong văn phòng để vào, nếu Ullman bắt quả tang ông cầm cái chìa đó, ông kiểu gì cũng nhập hội thất nghiệp cùng với Delores Vickery.
Tấm màn che xung quanh bồn tắm đã được kéo lại. Ông mở nó ra, nhưng trước khi làm thế, ông cũng đã có linh cảm về những gì mình sẽ trông thấy. Bà Massey, trương phồng và tím tái, nằm ướt sũng trong bồn tắm lưng nước. Ông đứng nhìn bà ta, mạch đập thình thịch trong cổ họng. Từng có nhiều thứ khác xảy ra ở Overlook: một cơn ác mộng lặp đi lặp lại thất thường - một bữa tiệc hóa trang nào đó trong phòng khiêu vũ Overlook và ông là người phục vụ, rồi khi có tiếng hô vang yêu cầu cởi mặt nạ, mọi người để lộ ra những khuôn mặt toàn côn trùng thối rữa - còn cả lũ thú cây cảnh nữa. Hai lần, có khi ba lần, ông đã (hoặc nghĩ rằng mình đã) thấy chúng di chuyển, dù chỉ nhích đi chút xíu. Con chó trông như thể vừa chuyển từ tư thế ngồi thẳng sang hơi cúi xuống, còn mấy con sư tử dường như đã tiến về phía trước, như thể đang đe dọa lũ trẻ con trên sân chơi. Vào tháng Năm năm ngoái, Ullman đã phái ông lên gác mái để tìm bộ đồ cời lửa trang trí tinh xảo hiện đang đặt bên lò sưởi ở sảnh. Trong lúc ông ở trên đó, ba bóng đèn treo trên đầu tắt ngấm và ông không tìm được đường trở lại cửa sập. Ông đã phải dò dẫm khắp nơi suốt một hồi chẳng rõ là bao lâu, càng lúc càng gần trở nên hoảng loạn hơn, va ống chân vào các thùng các hộp và đụng trúng đủ thứ đồ đạc, mỗi lúc một thêm tin chắc rằng có thứ gì đó đang rình rập mình trong bóng tối. Một sinh vật khổng lồ đáng sợ nào đó vừa mới chui ra khỏi nơi ẩn náu khi đèn tắt. Và khi vấp trúng cái chốt vòng của cửa sập, ông leo xuống vội vã hết mức có thể, để mặc cái cửa mở toang hoang, cả người bơ phờ đầy bồ hóng, cảm giác mình vừa thoát được một thảm họa trong gang tấc. Chốc sau Ullman đã đích thân xuống bếp, thông báo cho ông biết rằng ông đã không đóng cửa sập dẫn lên gác mái và để đèn sáng nguyên trên đó. Phải chăng Hallorann nghĩ khách muốn lên đó chơi trò săn tìm kho báu? Phải chăng ông nghĩ điện là miễn phí?
Và ông ngờ - không, ông gần như chắc chắn - rằng có mấy vị khách cũng đã nhìn hoặc nghe thấy điều này điều nọ. Trong ba năm ông làm ở đó, Suite Tổng Thống đã được đặt mười chín lần. Sáu vị khách vào trọ trong đó đã rời khách sạn sớm, một số người trông ốm yếu thấy rõ. Vài vị khách cũng đã rời khỏi những căn phòng khác một cách đột ngột chẳng kém. Đêm tháng Tám nọ năm 1974, gần lúc chạng vạng, một người đàn ông - từng giành Huy chương Sao Đồng và Huy chương Sao Bạc sau khi đi lính ở Triều Tiên (người đó giờ đây đang giữ ghế trong hội đồng quản trị ở ba tập đoàn lớn và có lời đồn là ông ta từng đích thân đuổi việc một phát thanh viên tin tức nổi tiếng trên truyền hình) - đã nổi cơn la hét cuồng loạn trên sân gôn mà không hiểu vì sao. Và trong quãng thời gian Hallorann làm việc tại Overlook, có hàng chục đứa trẻ dứt khoát không chịu bước vào sân chơi. Một đứa trẻ đã lên cơn co giật khi chơi trong những cái ống bê tông, nhưng Hallorann không biết liệu có thể quy vụ đó cho bài ca mỹ nhân ngư chết người của Overlook hay không - những người phục vụ đã rỉ tai nhau rằng đứa trẻ ấy, con gái duy nhất của một diễn viên điện ảnh điển trai, vốn mắc chứng động kinh cần phải dùng thuốc điều trị và ngày hôm đó đơn giản là cô bé đã quên uống thuốc.
Thế nên, khi nhìn chằm chằm xuống xác bà Massey, ông thấy hãi nhưng không hoàn toàn hoảng sợ. Đó không hẳn là một điều gì bất ngờ. Nỗi kinh hoàng ập đến khi bà ta mở mắt, để lộ cặp đồng tử bạc vô hồn và bắt đầu cười toe toét với ông. Nỗi kinh hoàng ập đến khi
( bà ta bắt đầu bước ra và đuổi theo. )
Ông đã bỏ chạy, tim đập thình thịch, thậm chí không thấy an toàn ngay cả khi cánh cửa đã đóng lại và khóa chặt đằng sau lưng. Thực tế, ông thừa nhận với bản thân trong lúc gài túi hành lý lại, ông sẽ không bao giờ còn cảm thấy an toàn ở bất cứ đâu trong Overlook nữa.
Và bây giờ đến lượt thằng bé - cất tiếng gọi, la hét cầu cứu.
Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Đang là năm giờ rưỡi chiều. Ông ra đến cửa căn hộ, nhớ ra rằng ở Colorado bây giờ đang là giữa mùa đông khắc nghiệt, đặc biệt là trên núi, nên quay trở lại tủ quần áo. Ông lôi chiếc áo khoác dài lót da cừu ra khỏi túi nhựa giặt khô và đắp nó lên cánh tay. Đó là món trang phục mùa đông duy nhất ông sở hữu. Ông tắt hết đèn và nhìn xung quanh. Ông có quên thứ gì không nhỉ? Đúng rồi. Có một thứ. Ông lấy di chúc ra khỏi túi áo ngực và nhét vào rìa gương bàn trang điểm. Nếu may mắn, ông sẽ quay trở về để lấy lại nó.
Phải rồi, nếu may mắn.
Ông rời căn hộ, khóa cửa sau lưng, đặt chìa khóa dưới tấm thảm cói và chạy xuống những bậc cầu thang bên ngoài để ra chỗ chiếc Cadillac của mình.
Khi đã đi được nửa đường đến Sân bay Quốc tế Miami, cách đủ xa cái tổng đài nơi Queems hoặc đám bậu xậu của Queems hay nghe lỏm, Hallorann dừng lại ở một công ty giặt ủi trong trung tâm mua sắm và gọi cho United Airlines. Có chuyến nào bay đến Denver không?
Có một chuyến sẽ cất cánh vào lúc 6:36 chiều. Ông có đến kịp chuyến này không?
Hallorann nhìn đồng hồ, bấy giờ đang hiển thị 6:02, rồi nói mình đến kịp. Chuyến bay còn chỗ trống chứ?
Để tôi kiểm tra chút.
Một âm thanh cạch vang lên trong tai ông, theo sau là giai điệu ngọt lừ của Montavani, mục đích là giúp cho việc phải chờ máy trở nên dễ chịu hơn. Hoàn toàn vô dụng. Hallorann dồn trọng lượng từ chân này sang chân kia, hết liếc đồng hồ đeo tay đến liếc sang một cô gái trẻ với đứa con đang ngủ địu trên lưng đang lấy đồ ra khỏi một cái máy giặt chạy xu. Cô sợ mình sẽ về nhà muộn hơn dự định và món thịt nướng sẽ bị cháy và chồng cô - Mark? Mike? Matt? - sẽ cáu tiết.
Một phút trôi qua. Hai. Ông vừa quyết định cứ thế đánh liều lái xe đến thì cái giọng nói nghe như băng thu của nhân viên đặt chỗ chuyến bay lại vang lên. Có một chỗ trống, do hủy vé. Chỗ ở khoang hạng nhất. Thế có vấn đề gì không?
Không. Ông muốn nó.
Thanh toán bằng tiền mặt hay thẻ tín dụng đây?
Tiền mặt, cưng à, tiền mặt. Tôi phải bay.
Và tên ông là...?
Hallorann, hai chữ l , hai chữ n . Gặp lại sau nhé.
Ông cúp máy và vội vã đi ra cửa. Suy nghĩ đơn giản của cô gái - nỗi lo về món thịt nướng - cứ truyền đi truyền lại vào đầu ông cho đến khi ông có cảm tưởng mình sẽ phát điên. Đôi khi lại như vậy đó, ông sẽ vô cớ bắt được một ý nghĩ, hoàn toàn biệt lập, hoàn toàn thuần khiết và rõ ràng. và thường thì hoàn toàn vô dụng.
Ông suýt đến kịp.
Đang lúc ông tăng tốc chiếc limo lên một trăm ba mươi cây và sân bay thực sự đã lọt vào trong tầm mắt thì một chiếc xe thuộc Cảnh sát Florida bắt ông tấp vào lề.
Hallorann hạ kính cửa sổ chạy điện ra và mở miệng với viên cảnh sát, bấy giờ đang lật giở các trang trong cuốn sổ ghi.
“Tôi biết ,” viên cảnh sát nói với giọng trấn an. “Có một đám tang ở Cleveland. Là bố ông. Có một đám cưới ở Seattle. Chị gái ông. Một đám cháy ở San Jose đã thiêu rụi cửa hàng kẹo của bà nội ông. Một gói cần Campuchia tuyệt hảo đang chờ sẵn trong một tủ khóa ở một sân ga trong Thành phố New York. Tôi yêu đoạn đường nằm ngay bên ngoài sân bay này lắm. Ngay từ bé, tiết kể chuyện đã là phần tôi thích nhất ở trường học.”
“Nghe này, thưa sĩ quan, con trai tôi đang...”
“Phần duy nhất trong câu chuyện mà tôi không bao giờ có thể đoán được ra trước đoạn kết,” viên sĩ quan nói, tìm ra đúng trang trong cuốn sổ, “đó là số bằng lái của tài xế/người kể chuyện đã vi phạm, cũng như thông tin đăng ký của người đó. Thế nên hãy tử tế đi nào. Cho tôi ngó qua chút.”
Hallorann nhìn vào đôi mắt xanh bình tĩnh của viên cảnh sát, cân nhắc xem có nên cứ kể câu chuyện con-trai-tôi-đang-trong-tình-trạng-nguy-kịch hay không và quyết định rằng làm vậy sẽ chỉ tổ khiến cho tình hình tồi tệ hơn. Tay cớm này không phải là Queems. Ông rút ví ra.
“Tuyệt vời,” viên cảnh sát nói. “Ông có thể lôi chúng ra cho tôi không? Tôi chỉ muốn xem rốt cuộc thì câu chuyện sẽ kết thúc ra sao.”
Hallorann lặng lẽ lấy bằng lái và đăng ký xe tại Florida ra và đưa chúng cho viên cảnh sát giao thông.
“Rất tốt. Tốt đến mức ông thắng được một phần quà đấy.”
“Là gì thế?” Hallorann hỏi với vẻ hy vọng.
“Khi viết xong những con số này, tôi sẽ cho phép ông thổi một quả bóng nhỏ cho tôi.”
“Ôi, Chúaaa ơiiiii! ” Hallorann rên rỉ. “Thưa sĩ quan, chuyến bay của tôi...”
“Suỵt,” viên cảnh sát giao thông nói. “Đừng hư nào.”
Hallorann nhắm mắt lại.
Ông đến bàn United vào lúc 6:49, hy vọng viển vông rằng chuyến bay đã bị hoãn. Ông thậm chí còn không phải hỏi. Màn hình các chuyến đi treo phía trên bàn tiếp hành khách đã cho biết kết thúc của câu chuyện. Chuyến bay 901 đến Denver, giờ khởi hành dự kiến lúc 6:36 múi giờ miền Đông, đã rời đi lúc 6:40. Chín phút trước.
“Ôi khốn kiếp,” Dick Hallorann nói.
Và bất chợt có cái mùi cam, nồng nặc và ngọt ngào đến phát lọm; ông chỉ vừa kịp chạy vào phòng vệ sinh nam trước khi nó ập đến, inh tai nhức óc, kinh hoàng:
(!!!ĐẾN ĐI MÀ ĐẾN ĐI BÁC DICK LÀM ƠN LÀM ƠN ĐẾN ĐI MÀ!!!)