← Quay lại trang sách

Chương 40 BỐN Các cuộc trò chuyện tại bữa tiệc

Gã đang khiêu vũ với một người phụ nữ xinh đẹp.

Gã không biết bây giờ là mấy giờ rồi, không biết mình đã ở Sảnh Colorado bao lâu hay ở trong phòng khiêu vũ này từ bao giờ. Thời gian đã không còn quan trọng nữa.

Gã có những ký ức mơ hồ: lắng nghe người đàn ông từng là một diễn viên hài thành công trên đài phát thanh và sau đó trở thành một ngôi sao tạp kỹ hồi truyền hình mới ra đời thuật lại câu chuyện cười rất dài và vui nhộn về vụ loạn luân của một cặp song sinh dính liền nhau; nhìn ngắm người phụ nữ mặc quần thụng với áo yếm đính kim sa chậm rãi thực hiện màn thoát y uốn éo trên nền một bài nhạc khêu gợi nào đó từ cái máy hát (có vẻ như là nhạc nền của David Rose trong phim Vũ nữ thoát y); băng qua đại sảnh thành một nhóm ba người, hai người kia mặc trang phục dạ hội thời trước thập niên hai mươi, cả bọn cùng nghêu ngao hát về mảng khô cứng trên quần lót của Rosie O’Grady. Gã dường như nhớ rằng mình đã nhìn ra ngoài cánh cửa đôi lớn và trông thấy đèn lồng Nhật Bản treo thành những đường cung uốn lượn thanh nhã, men theo con đường dẫn vào khách sạn - chúng có màu phấn dịu và lập lòe tỏa sáng như những viên ngọc mờ đục. Khối cầu thủy tinh lớn trên mái hiên đã được bật lên, đám côn trùng đêm lao vào và lượn quanh nó; một phần trong gã, có thể là chút tỉnh táo le lói còn sót lại, cố nói với gã rằng hiện đang là sáu giờ một buổi sáng tháng Mười hai. Nhưng thời gian đã bị xóa bỏ.

( Mọi lý lẽ phản bác cơn điên đều rơi xoàn xoạt khẽ khàng | lớp này chồng lên lớp khác... )

Của ai ấy nhỉ? Một nhà thơ nào đó gã từng đọc hồi còn là sinh viên đại học ư? Một nhà thơ thời sinh viên bây giờ đang chào mời máy giặt ở Wausau hoặc bán bảo hiểm ở Indianapolis? Hay đó là một ý nghĩ chính chủ? Không quan trọng.

( Màn đêm dài tăm tối | các vì sao cao vời | chiếc bánh trứng đứt rời | lửng lơ trên bầu trời... )

Gã không kìm được mà cười khúc khích.

“Chuyện gì mà buồn cười thế, cưng?”

Rồi gã đã lại ở đây, trong phòng khiêu vũ. Đèn chùm tỏa sáng và các cặp đôi đang nhảy thành vòng khắp xung quanh, một số mặc đồ hóa trang còn một số khác thì không, họ nhảy trên nền nhạc mượt mà của một ban nhạc hậu chiến nào đó - nhưng mà là cuộc chiến nào? Liệu ta có thể xác định chắc chắn được không?

Không, tất nhiên là không rồi. Gã chỉ chắc chắn một điều duy nhất: gã đang khiêu vũ với một người phụ nữ xinh đẹp.

Cô là một người cao ráo có mái tóc màu nâu vàng, bộ váy satin trắng bó, dạng kề sát gã, ngực cô áp lên ngực gã nhẹ nhàng và dịu êm. Bàn tay trắng nõn của cô đan với tay gã. Cô đang đeo một chiếc mặt nạ mắt mèo nhỏ lấp lánh còn mái tóc được chải sang bên thành một thác nước mềm mại và lóng lánh, đổ vào trong thung lũng tạo thành từ hai bờ vai đang chạm nhau của họ. Chiếc váy cô mặc là váy dài, nhưng gã có thể cảm thấy đùi cô thỉnh thoảng lại chạm vào chân gã và gã càng lúc càng thêm tin chắc rằng bên dưới chiếc váy kia là làn da trần, thoa phấn nhẵn mịn

( để cảm thấy anh cương cứng rõ hơn, anh yêu à )

và quả thật là gã bấy giờ đang dựng cờ. Nếu điều ấy có làm cô thấy khó chịu thì cô cũng che giấu rất khéo; cô rúc sát vào gã hơn nữa.

“Không có gì buồn cười cả, cưng à,” gã nói và lại cười khúc khích.

“Em thích anh đấy,” cô thì thầm, gã nghĩ rằng mùi hương cô cũng giống như hoa huệ, bí ẩn và nấp trong những vết nứt phủ đầy rêu xanh - những nơi ánh nắng chiếu qua ngắn ngủi và bóng tối thì đổ dài.

“Anh cũng thích em.”

“Chúng ta có thể đi lên lầu, nếu anh muốn. Em đáng lẽ phải đi với Harry, nhưng anh ta sẽ không để ý đâu. Anh ta còn đang mải trêu chọc Roger tội nghiệp.”

Bản nhạc kết thúc. Một tràng pháo tay vang lên và ban nhạc chuyển sang chơi bài “Mood Indigo” gần như ngay lập tức.

Jack nhìn qua bờ vai trần của cô và thấy Derwent đang đứng cạnh bàn đồ ăn thức uống. Cô gái mặc xà rông đang ở bên hắn. Những chai rượu sâm panh đựng trong xô đá để dàn ra trên mặt bàn phủ vải gai trắng, Derwent cầm một chai trong tay. Một đám người đã túm tụm lại, cười cợt. Phía trước Derwent và cô gái mặc xà rông, Roger nhảy cõn lên đầy quái đản bằng cả tứ chi, cái đuôi gã kéo lê đằng sau. Gã đang sủa.

“Nói đi, cu, nói đi!” Harry Derwent quát.

“Gâu! Gâu!” Roger trả lời. Mọi người cùng vỗ tay; vài người trong cánh đàn ông huýt sáo.

“Bây giờ thì ngồi dậy đi. Ngồi dậy đi, chó cưng!”

Roger loạng choạng ngồi dậy trên chân sau. Phần mõm trên mặt nạ gã đông cứng trong trạng thái gầm gừ vĩnh cửu. Bên trong hố mắt, cặp mắt Roger trợn tròn, nhễ nhại và hối hả một cách vui nhộn. Gã giơ hai cánh tay ra, để bàn tay lủng lẳng.

“Gâu! Gâu!”

Derwent lộn ngược chai sâm panh và dòng rượu như thác nước Niagara đầy bọt đổ xuống cái mặt nạ đang ngước lên. Roger phát ra những tiếng liếm láp điên cuồng và mọi người lại vỗ tay. Vài người phụ nữ cười rú lên.

“Harry kỳ dị thật đấy nhỉ?” người bạn nhảy hỏi gã, lại áp sát vào. “Mọi người đều bảo thế. Anh ta chơi cả hai hệ, anh biết không. Roger tội nghiệp thì chỉ có một hệ thôi. Cậu ta từng ở cùng với Harry tại Cuba một dịp cuối tuần... ôi, đã mấy tháng trước rồi. Bây giờ thì cậu ta bám theo Harry khắp mọi nơi, ngoe nguẩy cái đuôi nhỏ đằng sau lưng.”

Cô cười khúc khích. Mùi hương hoa huệ e lệ bay lên.

“Nhưng tất nhiên Harry không bao giờ nối lại tình cũ... ít nhất thì không phải tình đồng tính... còn Roger thì hoang dại quá. Harry đã bảo Roger là nếu cậu ta đến dự dạ hội hóa trang dưới dạng một con chó, một con chó nhỏ dễ thương, thì anh ta có thể xem xét lại, vậy mà Roger thật sự ngớ ngẩn đến độ cậu ta...”

Bản nhạc kết thúc. Có thêm nhiều tiếng vỗ tay nữa. Các thành viên ban nhạc đang nối đuôi nhau xuống nghỉ.

“Cho em xin lỗi nhé, cưng” cô nói. “Có một người em cần phải... Darla! Darla thân mến, cô đã ở đâu thế?”

Cô luồn lách vào trong đám đông đang ăn uống và gã đờ đẫn nhìn theo cô, tự hỏi làm sao mà họ lại nhảy với nhau. Gã không nhớ. Các sự kiện như thể cứ xảy ra mà không có chút kết nối nào. Đầu tiên ở đây, thế rồi ở đó, rồi ở khắp mọi nơi. Đầu gã quay mòng mòng. Gã ngửi thấy mùi hoa huệ và bách xù. Bên bàn đồ ăn thức uống, Derwent bấy giờ đang giơ một chiếc bánh mì kẹp nhỏ hình tam giác trên đầu Roger và hối thúc gã thực hiện một cú nhào lộn để mua vui cho những người đứng xem. Cái mặt nạ chó ngửa lên trên. Hai bên sườn màu bạc bộ trang phục chó phình ra xẹp xuống. Roger bất thình lình nhảy lên, chúi đầu xuống dưới, cố gắng lộn nhào trên không. Cú nhảy của gã quá thấp và quá gắng sức; gã vụng về đáp lung xuống đất, đập bốp đầu lên trên nền gạch. Một tiếng rên rỉ trống rỗng vang ra từ cái mặt nạ chó.

Derwent là người vỗ tay đầu tiên. “Thử lại đi, chó cưng! Thử lại đi!”

Những người đứng xem cùng cất tiếng tụng - thử lại đi, thử lại đi - và Jack lảo đảo đi về hướng ngược lại, cảm thấy hơi muốn bệnh.

Gã suýt nữa thì vấp vào xe chở đồ uống đang được một người đàn ông trán thấp mặc áo khoác phục vụ màu trắng đẩy ra. Chân gã đập vào ngăn dưới cái xe đẩy mạ crôm; những cái chai gắn vòi rót đập leng keng vào nhau nghe du dương.

“Xin lỗi,” Jack lè nhè nói. Gã đột nhiên cảm thấy ngột ngạt và bị bao vây; gã muốn ra ngoài. Gã muốn Overlook trở lại như trước... vắng bóng những vị khách không mời này. Gã không phải là người được trọng vọng, như người mở đường thực sự; gã chỉ là một trong mười ngàn diễn viên phụ hò reo khác, một con chó lăn lộn và ngồi dậy theo lệnh.

“Không sao đâu,” người đàn ông mặc áo khoác trắng nói. Cái thứ tiếng Anh lịch sự, ngắn gọn phát ra từ khuôn mặt côn đồ đó mới quái dị làm sao. “Ông làm một ly nhé?”

"Martini.”

Từ đằng sau gã, lại một tràng cười nữa rộ lên; Roger đang hú lên theo giai điệu “Ngôi nhà trên núi”. Ai đó đang đánh nhạc đệm với cây đàn piano Steinway cỡ nhỏ.

“Của ông đây.”

Chiếc ly lạnh giá được ấn vào trong bàn tay gã. Jack vui mừng uống, cảm nhận chỗ rượu lan tỏa và đập tan sự tỉnh táo đang dần xâm nhập.

“Uống có được không, thưa ông?”

“Được.”

“Cảm ơn ông.” Cái xe đẩy lại bắt đầu lăn bánh.

Jack đột nhiên chìa tay ra và chạm vào vai người kia.

“Vâng, thưa ông?”

“Thứ lỗi cho tôi, nhưng mà... tên anh là gì thế?”

Người kia không tỏ vẻ gì là bất ngờ hết. “Grady, thưa ông. Delbert Grady.”

“Nhưng anh... ý tôi là...”

Người pha chế lịch sự nhìn gã. Jack thử lại lần nữa, mặc dù miệng gã đang bị rượu và sự phi thực làm cho nhũn hẳn ra; cảm giác như thể mỗi một từ đều lớn ngang một cục nước đá.

“Chẳng phải anh từng là người trông nom ở đây sao? Hồi anh... hồi...” Nhưng gã không thể nói dứt câu. Gã không thể nói ra điều đó.

“Ồ không, thưa ông. Tôi e là không.”

“Nhưng vợ anh... con gái anh...”

“Vợ tôi đang giúp việc bếp núc, thưa ông. Mấy đứa con gái thì tất nhiên là đang ngủ rồi. Giờ đối với chúng là quá khuya.”

“Anh là người trông nom. Anh...” Ôi nói toạc ra đi xem nào! “Anh đã giết họ.”

Khuôn mặt Grady vẫn giữ nguyên vẻ vô cảm lịch sự. “Tôi không nhớ có chuyện nào như vậy cả, thưa ông.” Ly gã đã rỗng không. Grady lấy nó ra khỏi những ngón tay không chút kháng cự của Jack và bắt đầu pha thêm ly nữa cho gã. Trên chiếc xe đẩy có một cái xô nhựa nhỏ màu trắng chứa đầy ô liu. Không hiểu vì sao, chúng gọi cho Jack nhớ đến những cái đầu tí hon bị chặt đứt. Grady điêu luyện xiên lấy một quả, thả vào trong ly và đưa cho gã.

“Nhưng anh...”

“ Ông là người trông nom, thưa ông” Grady bình thản nói. “Ông vẫn luôn là người trông nom. Tôi biết rõ lắm, thưa ông. Tôi ở đây từ trước đến giờ mà. Cả hai chúng ta đã được một người quản lý thuê, cùng một lúc. Có ổn không, thưa ông?”

Jack uống ly rượu. Đầu gã quay mòng mòng. “Ullman...”

“Tôi không quen ai với cái tên đó, thưa ông.”

“Nhưng anh ta...”

“Quản lý,” Grady nói. “Tức khách sạn ấy, thưa ông. Hẳn ông đã nhận ra ai là người thuê mình rồi chứ, thưa ông.”

“Không” gã lè nhè nói. “Không, tôi...”

“Tôi nghĩ là ông phải nghiêm với thằng con trai mình hơn, thưa ông Torrance. Nó hiểu hết mọi thứ, mặc dù nó chưa giải thích gì cho ông. Cho phép tôi nói rằng nó như thế là hư lắm, thưa ông. Trên thực tế, nó gần như lúc nào cũng ngáng đường ông, đúng không? Và nó còn chưa đầy sáu tuổi nữa.”

“Vâng,” Jack nói. “Đúng thế.” Một tràng cười nữa vang lên từ phía sau họ.

“Cho phép tôi nói rằng nó cần phải được chấn chỉnh lại. Cần phải mắng nó một trận ra trò, có thể hơn thế một tí nữa. Thưa ông, bản thân mấy đứa con gái nhà tôi mới đầu cũng không yêu thích gì Overlook. Một đứa thậm chí còn đánh cắp một ví diêm của tôi và tìm cách đốt trụi nơi này. Tôi đã chấn chỉnh lại chúng. Tôi chấn chỉnh lại chúng hết sức nghiêm khắc. Và khi vợ tôi cố ngăn tôi làm nhiệm vụ, tôi cũng chấn chỉnh lại cô ta luôn.” Hắn tặng Jack một nụ cười lạnh lùng, vô nghĩa. “Tôi thấy có một điều thật đáng buồn nhưng lại là sự thật, ấy là cánh phụ nữ hiếm khi hiểu trách nhiệm của ông bố đối với con cái mình. Các đức ông chồng kiêm người cha phải mang vác một số trách nhiệm nhất định, phải không, thưa ông?”

“Vâng,” Jack nói.

“Họ không yêu Overlook như tôi,” Grady nói, bắt đầu pha cho gã một ly nữa. Bong bóng bạc sủi lên trong chai rượu dốc ngược. “Hệt như con trai và vợ ông không yêu nó... ít nhất là hiện tại thì không. Nhưng rồi họ sẽ dần yêu lấy nó. Ông phải chỉ ra cho họ thấy sai lầm của họ, ông Torrance à. Ông đồng ý chứ?”

“Vâng. Tôi đồng ý.”

Gã quả thật đã hiểu ý. Gã đã quá dễ dãi với họ. Người chồng và người cha có một số trách nhiệm nhất định. Bố biết rõ nhất. Họ không hiểu. Bản thân điều đó không phải tội tình gì hết, nhưng họ cố tình không hiểu. Bình thường thì gã không phải người quá nghiêm khắc. Nhưng gã đồng tình với việc sử dụng hình phạt. Và nếu con trai và vợ gã cố tình chống đối ý nguyện gã, c hống đối những điều gã biết là tốt nhất cho họ, thì chẳng phải gã có một nhiệm vụ ấy là...?

“Một đứa trẻ vô ơn còn sắc nhọn hơn cả răng rắn,” Grady nói, đưa cho gã ly rượu. “Tôi tin rằng quản lý có thể làm con trai ông biết vâng lời. Và chẳng bao lâu sau vợ ông cũng sẽ tuân theo. Ông có đồng ý không, thưa ông?”

Gã bỗng dưng cảm thấy lưỡng lự. “Tôi... nhưng... nếu họ có thể cứ rời đi thôi... ý tôi là, xét cho cùng, tôi mới là người quản lý muốn, phải không? Hẳn phải là như vậy. Bởi vì...” Bởi vì tại sao? Gã đáng lẽ phải biết, nhưng bất chợt gã lại không nghĩ ra nữa. Ôi, bộ não tội nghiệp của gã quay mòng mòng.

“Chó hư!” Derwent đang lớn tiếng nói, trên nền những tiếng cười đồng thanh. “Đi tè ra sàn nhà là chó hư.”

“Tất nhiên là ông biết,” Grady nói, nghiêng người qua chiếc xe đẩy theo kiểu thậm thụt, “con trai ông đang tìm cách đưa một bên nữa tham gia vào mọi chuyện. Con trai ông sở hữu một tài năng rất tuyệt vời, một tài năng mà người quản lý có thể sử dụng để cải thiện Overlook hơn nữa, để làm nó... phong phú thêm, chắc gọi thế hợp đấy nhỉ? Nhưng con trai ông đang cố gắng sử dụng chính tài năng đó để chống lại chúng ta. Nó ương bướng lắm, thưa ông Torrance. Ương bướng lắm.”

“Bên nữa ư?” Jack ngờ nghệch hỏi.

Grady gật đầu.

“Ai thế?”

“Một lão mọi đen,” Grady nói. “Một lão mọi đầu bếp.”

"Hallorann à?”

“Vâng, tôi tin rằng đó là tên lão, thưa ông.”

Một tràng cười nữa vang lên từ đằng sau họ, tiếp theo Roger nói gì đó với giọng rên rỉ, tỏ ý phản đối.

“Có chứ! Có chứ! Có chứ!” Derwent bắt đầu hô. Những người khác xung quanh hắn vào hùa, nhưng trước khi Jack nghe ra họ muốn Roger làm gì bây giờ, thì ban nhạc đã bắt đầu chơi lại - giai điệu được chơi là “Ngã tư lễ phục”, với rất nhiều tiếng kèn saxophone êm dịu nhưng chẳng có mấy âm điệu nhạc soul.

( Nhạc soul ư? Nhạc soul thậm chí chưa được phát minh cơ mà. Hay là rồi nhỉ? )

( Một lão mọi đen... một lão mọi đầu bếp. )

Gã mở miệng định nói, không biết điều gì có thể sẽ thốt ra. Kết quả là:

“Tôi nghe bảo là anh không học hết cấp ba. Nhưng anh không ăn nói như một người thất học.”

“Đúng là tôi đã rời khỏi trường lớp chính quy từ rất sớm, thưa ông. Nhưng quản lý lo liệu đầy đủ cho nhân viên mình. Ông ấy thấy làm vậy sẽ mang lại lợi ích. Giáo dục luôn mang lại lợi ích, ông đồng ý không, thưa ông?”

“Ừ,” Jack ngây dại nói.

“Ví dụ, ông tỏ vẻ rất muốn tìm hiểu thêm về khách sạn Overlook. Ông làm vậy là khôn ngoan lắm đấy, thưa ông. Rất cao thượng. Có một cuốn sổ được để lại dưới tầng hầm để ông tìm thấy...”

“Ai để lại thế?” Jack háo hức hỏi.

“Tất nhiên là quản lý rồi. Một số tài liệu khác có thể sẽ được cấp cho ông tham khảo, nếu ông muốn có chúng...”

“Tôi muốn. Rất muốn.” Gã cố gắng kiềm chế sự háo hức trong giọng mình nhưng thất bại thảm hại. bao “Ông là một học giả thực thụ,” Grady nói. “Theo đuổi nghiên cứu đề tài đến cùng. Tận dụng mọi nguồn tin.” Hắn cúi cái đầu trán thấp xuống, kéo vạt áo khoác phục vụ trắng ra và lấy khớp ngón tay chùi một chỗ bẩn nào đó mà Jack không thể nhìn thấy.

“Và quản lý không áp đặt điều kiện gì cho ân huệ của mình cả,” Grady nói tiếp. “Không hề. Hãy nhìn tôi, một tay bỏ học từ lớp mười mà xem. Hãy suy nghĩ thử xem bản thân ông sẽ có thể thăng tiến đến nhường nào trong cơ cấu tổ chức của Overlook. Có thể... dần dần... lên đến tận trên đỉnh.”

“Thật thế à?” Jack thì thầm.

“Nhưng điều đó thực sự tùy thuộc vào quyết định của con trai ông, phải không?” Grady hỏi, nhưón mày. Cử chỉ tinh tế ấy chẳng ăn nhập gì với cặp lông mày rậm rạp và có phần man rợ kia cả.

“Tùy thuộc vào Danny ư?” Jack cau mày nhìn Grady. “Không, tất nhiên là không rồi. Tôi sẽ không cho phép con trai tôi đưa ra quyết định nào liên quan đến sự nghiệp tôi hết. Không bao giờ. Anh nghĩ tôi là ai hả?”

“Một người đàn ông tận tụy,” Grady nói thân thiện. “Có thể tôi lựa lời hơi kém, thưa ông. Hãy cứ nói rằng tương lai ông đây phụ thuộc vào việc ông quyết định giải quyết cái tính bướng bỉnh của con trai mình như thế nào.”

“Tôi sẽ tự đưa ra quyết định,” Jack thì thầm.

“Nhưng ông phải xử lý thằng bé.”

“Tôi sẽ làm vậy.”

“Một cách nghiêm khắc.”

“Tôi sẽ làm vậy.”

“Quản lý của chúng ta chẳng mấy hứng thú với một người không thể kiểm soát nổi gia đình mình đâu. Khó mà kỳ vọng một người không kiểm soát được vợ và con trai mình lại có thể tự kiểm soát bản thân, nói gì là đảm nhận một chức vụ đầy trọng trách trong một tổ chức tầm cỡ đến nhường này. Ông ấy...”

“Tôi nói tôi sẽ xử lý nó rồi đấy thôi!” Jack đột ngột hét lên, cảm thấy giận dữ.

“Ngã tư lễ phục” vừa kết thúc và giai điệu mới còn chưa kịp bắt đầu. Tiếng hét của gã vang lên vào đúng cái khoảng trống ấy và các cuộc trò chuyện phía sau gã đột nhiên dùng lại. Gã bất chợt cảm thấy nóng ran khắp người. Gã tin chắc rằng mọi người đang nhìn chằm chằm gã. Họ đã chơi đùa xong với Roger và bây giờ sẽ bắt đầu nô giỡn với gã. Lăn mình. Ngồi dậy. Giả chết. Nếu anh chơi với chúng tôi, chúng tôi sẽ chơi với anh. Chức vụ đầy trọng trách. Họ muốn gã hy sinh con trai mình.

( ... Bây giờ thì cậu ta bám theo Harry khắp mọi nơi, ngoe nguẩy cái đuôi nhỏ đằng sau lưng... )

( Lăn mình. Giả chết. Trừng phạt con trai ông. )

“Ngay lối này, thưa ông,” Grady bấy giờ đang nói. “Có thứ này chắc ông sẽ thấy thích.”

Tiếng trò chuyện đã lại bắt đầu nổi lên, trầm bổng theo nhịp điệu riêng, hòa quyện vào với tiếng ban nhạc, hiện đang chơi bản swing của bài “Vé đi tàu” do Lennon và McCartney sáng tác.

( Mình từng nghe được bản hay hơn ngoài loa ở siêu thị. )

Gã cười khúc khích một cách ngớ ngẩn. Gã nhìn xuống bàn tay trái và thấy có một ly rượu nữa, đầy phân nửa. Gã nốc cạn nó chỉ trong một ngụm.

Bây giờ gã đang đứng phía trước bệ lò sưởi, hơi nóng từ ngọn lửa tí tách được khơi lên trong lò sưởi làm ấm đôi chân gã.

( một đống lửa à?... vào tháng Tám ư?... … và không… mọi thời đại đều chập chung làm một )

Có một chiếc đồng hồ trong vòm kính, hai bên là hai con voi ngà chạm khắc. Hai kim đồng hồ báo hiệu còn một phút nữa là sẽ đến nửa đêm. Gã lờ đờ nhìn nó. Đây có phải là thứ Grady muốn gã xem không? Gã quay lại định hỏi, nhưng Grady đã rời đi rồi.

Lúc chơi được phân nửa bản “Vé đi tàu”, ban nhạc bỗng làm một hồi kèn đồng tùy hứng.

“Thời khắc đã điểm!” Horace Derwent tuyên bố. “Nửa đêm rồi! Cởi mặt nạ ra! Cởi mặt nạ ra!”

Gã cố gắng quay người lại, để xem những khuôn mặt nổi tiếng nào ẩn giấu bên dưới lớp kim tuyến và son và mặt nạ, nhưng người gã giờ đã đông cứng, mắt không thể rời khỏi chiếc đồng hồ - cặp kim của nó đã chạm vào nhau và chỉ thẳng lên.

“ Cởi mặt nạ ra! Cởi mặt nạ ra! ” tiếng hô vang lên.

Cái đồng hồ bắt đầu đổ hồi chuông thánh thót. Dọc theo đường rãnh thép bên dưới mặt đồng hồ, từ bên trái và bên phải, hai hình nhân tiến ra. Jack nhìn, mê mẩn, quên cả vụ cởi mặt nạ. Máy đồng hồ kêu ro ro. Bánh răng quay và khớp vào với nhau, mặt đồng phát sáng ấm áp. Bánh đà xoay đong đưa tới lui một cách chuẩn xác.

Một trong hai hình nhân là một người đàn ông đứng nhón chân, nắm chặt trong tay thứ trông giống như cây dùi cui nhỏ. Người kia là một cậu bé đội mũ chóp giấy. Hai hình nhân trong cái đồng hồ sáng lấp lánh, chi tiết đến lạ thường. Ở mặt trước chiếc mũ chóp giấy thằng bé đội, gã có thể đọc thấy dòng chữ ĐẦN ĐỘN được khắc trên đó.

Hai hình nhân trượt vào hai đầu đối diện của một thanh trục thép. Đâu đó, ngân nga liên tục, là giai điệu một bản vanxơ do Strauss sáng tác. Một điệp khúc quảng cáo điên rồ bắt đầu vang lên trong đầu gã theo điệu nhạc: Mua đồ ăn cho chó, gâu gâu, gâu gâu, mua đồ ăn cho chó ...

Cái vồ thép trong tay ông bố đồng hồ bổ xuống đầu thằng bé. Đứa con trai đồng hồ ngã sụp tới trước. Cái vồ giơ lên hạ xuống, giơ lên hạ xuống. Đôi tay thằng bé đưa lên phản kháng bắt đầu dao động. Từ tư thế cúi mình, thằng bé nằm sấp xuống. Thế mà cây vồ vẫn giơ lên hạ xuống theo giai điệu nhẹ nhàng, ngân nga của Strauss, gã xem chừng có thể nhìn thấy khuôn mặt ông bố đồng hồ, ngó ngoáy và nhăn nheo và co rúm, có thể nhìn thấy miệng lão há ra và ngậm lại trong khi lão nhiếc móc cái hình hài bị đánh đập, bất tỉnh là cậu con trai.

Một đốm đỏ bay lên mặt trong vòm kính.

Một đốm khác theo sau. Hai đốm nữa văng ra bên cạnh nó.

Chất dịch đỏ giờ đã phun lên như một cơn mưa bệnh hoạn, văng khắp các mặt bên cái vòm kính rồi chảy xuống, che khuất những gì đang diễn ra bên trong, lốm đốm trên mảng đỏ là những mảnh xám tí hon của mô, vụn xương và não. Thế mà gã vẫn có thể thấy cây vồ giơ lên hạ xuống khi đồng hồ tiếp tục quay và các bánh răng tiếp tục khớp vào nhau trong cỗ máy nhân tạo xảo quyệt này.

“Cởi mặt nạ ra! Cởi mặt nạ ra!” Derwent đang la hét đằng sau gã và ở đâu đó, một con chó đang hú lên với giọng người.

( Nhưng đồng hồ không thể chảy máu được đồng hồ không thể chảy máu được )

Toàn bộ mái vòm đầy máu văng, gã có thể nhìn thấy những mẩu tóc dính thành cục nhưng chỉ thế thôi tạ ơn Chúa gã không thể thấy gì khác nữa, nhưng gã vẫn có cảm tưởng mình sẽ nôn bởi vì gã vẫn nghe thấy tiếng vồ tiếp tục giáng xuống, nghe thấy chúng qua lớp kính hệt như cách gã có thể nghe thấy lời bài “Dòng sông Danube xanh”. Nhưng âm thanh đó không còn là tiếng keng-keng-keng máy móc của một cái vồ máy đập vào một cái đầu máy nữa, mà là tiếng thịch mềm nhũn của vồ thật bổ xuống và đập vào một thứ đã nát tươm lầy nhầy. Một mớ nát bét đã từng là...

“ CỞI MẶT NẠ RA! ”

( ... Tử Thần Đỏ thống trị tất cả! )

Với một tiếng hét khổ sở, rền rĩ, gã quay người khỏi cái đồng hồ, đôi bàn tay chìa ra, hai chân loạng choạng vấp vào nhau như hai khối gỗ trong khi gã cầu xin họ hãy dừng lại, hãy chiếm lấy gã, lấy Danny, lấy Wendy, hãy chiếm lấy cả thế giới nếu muốn, miễn là hãy dừng lại và chừa cho gã một chút tỉnh táo, một chút ánh sáng.

Phòng khiêu vũ trống rỗng.

Những chiếc ghế với mớ chân mảnh khảnh chất trên bàn phủ bạt nhựa che bụi. Tấm thảm đỏ với đường chỉ vàng đã trở lại trên sàn nhảy, bảo vệ bề mặt gỗ cứng bóng loáng. Sân khấu trống không, chỉ có một giá đỡ micro bị tháo rời và một cây đàn ghi ta không dây bụi bặm dựa vào tường. Ánh nắng buổi sáng lạnh lẽo, ánh nắng mùa đông, uể oải chiếu vào qua những ô cửa sổ cao.

Đầu gã vẫn đang quay cuồng, gã vẫn cảm thấy say, nhưng khi gã quay lại bệ lò sưởi, ly rượu đã biến mất. Chỉ có những con voi ngà... và chiếc đồng hồ.

Gã loạng choạng bước qua cái sảnh lạnh lẽo, tối tăm và vào trong phòng ăn. Chân gã mắc phải một cái chân bàn và gã ngã sấp người, làm rung chuyển cái bàn. Mũi gã đập mạnh xuống sàn và bắt đầu chảy máu. Gã đứng dậy, hít ngược máu vào và lau mũi bằng mu bàn tay. Gã đi đến Sảnh Colorado và huých xuyên qua cặp cửa hai chiều, khiến chúng vung ra sau đập vào tường.

Nơi ấy trống rỗng… nhưng quầy rượu chứa đủ đồ. Tạ ơn Chúa! Thủy tinh và viền bạc trên nhãn chai tỏa sáng ấm áp trong bóng tối.

Gã nhớ rằng một lần, cách đây rất lâu, gã từng tức giận vì phía sau quầy không gắn gương. Bây giờ thì gã lại lấy đó làm mừng. Nếu nhìn vào gương, gã sẽ chỉ thấy một tay bợm rượu mới xuống khỏi cỗ xe: mũi bê bết máu, áo bỏ ngoài quần, tóc tai rối bù, má lỏm chỏm râu.

( Thò toàn bộ tay vào trong cái tổ thì trông như thế này đây. )

Nỗi cô đơn bất ngờ dâng trào, xâm chiếm lấy toàn bộ con người gã. Gã gào lên vì cơn khốn khổ bột phát và thật lòng ước giá mà mình đã chết. Vợ và con trai gã đang ở trên tầng, khóa cửa chặn gã. Những người khác đã rời đi. Bữa tiệc đã kết thúc.

Gã lại nhào tới, đến chỗ quầy rượu.

“Lloyd, anh ở chỗ quái nào rồi?” gã gào lên.

Không có câu trả lời. Trong cái

( buồng giam )

căn phòng bọc đệm dày đặc này, lời lẽ gã thậm chí còn không vọng về để tạo ảo tưởng có người ở quanh.

" Grady! ”

Không có lời đáp. Chỉ có những cái chai, đứng nghiêm cứng ngắc.

( Lăn mình. Giả chết. Lấy đồ về đây. Giả chết. Ngồi dậy. Giả chết. )

“Khốn kiếp, thôi kệ, tôi sẽ tự làm.”

Đi được nửa đường đến quầy rượu thì gã mất thăng bằng và bổ nhào về phía trước, ngã đập đầu đánh cộp một phát êm ru lên sàn nhà. Gã chống tay và đầu gối dậy, nhãn cầu đảo loạn từ bên này sang bên kia, miệng phát ra những tiếng lẩm bẩm chẳng rõ là gì. Rồi gã gục xuống, mặt quay sang một bên, hít vào những tiếng khò khè.

Bên ngoài, gió rít to hơn, đẩy tuyết đang ngày một dày thêm tới trước. Lúc đó là tám rưỡi sáng.