ANH MÃN CANH VÀ CÔ PHÙ DUNG
TRÊN BỜ SÔNG PHÙ DUNG, ĐẾN NAY NHỮNG CÂY mộc phù dung không còn nhiều nữa. Người ta bảo rằng, những cây phù dung già sẽ biến thành con tinh phù dung, thường thường đêm đêm biến thành người con gái đẹp ra đường lôi kéo cánh đàn ông. Có người, vào lúc sau nửa đêm, giữa khi trăng thanh gió mát, đã nhìn thấy một đám con gái, đẹp như tiên giáng trần, tắm táp ngoài sông, lúc biến thành những đóa hoa sen ngọc trong đêm, lúc lại biến thành những cô tiên nghịch nước... Mỗi nàng tiên, ít nhất cũng phải lôi kéo được một chàng trai, trẻ măng, để kết duyên chồng vợ. Thảo nào, mà sông Phù Dung năm nào cũng dìm chết một thanh niên trai trẻ ra sông tắm mát mùa hè. Làm cho hai trăm rưởi chàng thanh niên trẻ tuổi ở thị trấn vừa kinh, vừa sợ, vừa mừng. Những anh bạo phổi, bơi lặn giỏi đã từng nghĩ: Chỉ cần không mất mạng, sẽ sẵn sàng đi gặp gỡ với các cô tiên phù dung. Đứng trên lập trường người lãnh đạo, với cặp mắt nhìn thấy lợi ích lâu dài, điều đó quả thật là một sự uy hiếp đối với nhân dân và nhũng dân quân tham gia xây dựng thị trấn. Vì thế mà thị trấn Phù Dung vốn là một thị trấn cảnh sắc tuyệt vòi, bỗng trở thành một thị trấn đầy mê tín. Cuối cùng ủy ban xã tổ chức trồng thầu dầu, bảo rằng hạt có thể ép thành dầu bôi trơn cho máy bay bảo vệ quốc gia. Thế là đám học sinh tiểu học, đi hạ hết các gốc phù dung, trồng thầu dầu thay vào đó, vừa củng cố được quốc phòng, vừa bài trừ được mê tín dị đoan. Và cái hồ vuông vức ở ngay đằng sau thị trấn vốn là thả thủy phù dung, nhưng sau khi thành lập công xã, lấy lương thực làm cương lĩnh chính, nên đã cải tạo nó thành ruộng lúa nước. Nhưng ở chỗ bến thuyền bờ sông may mà vẫn còn lưu lại được những cây thạch trắng to khoảng người ôm, leo đầy những dây dương quy xanh ngắt. Đối với ngót mười cây thạch trắng cổ thụ quấn đầy dây dương quy xanh ngắt, có thể hạ xuống cung cấp đủ củi đun cho cả phong trào toàn dân nấu thép luyện gang này, mỗi người ở thị trấn lại có một kiến giải khác nhau. Có người bảo chất lượng gỗ của nó không tốt nên khi đốt thành than hoa rồi, than hoa sẽ không bắt lửa. Có người bảo, ông chủ tịch xã cũ, một người sau này bị quy thành phần tử xã hội hữu khuynh lại ngoan cố giữ những cây đó lại, bảo rằng để làm chỗ cho những người chờ đò qua sông, nghỉ ngơi, tránh nắng. Có người lại bảo rằng rồi khi đến chủ nghĩa cộng sản chỉ có ăn, có uống, thì vào những ngày nóng bức, vẫn phải dùng tới nước giếng trong, xay mấy bát thạch trắng để uống cho mát cổ mát họng, nên mới giữ những cây thạch trắng này lại, coi nó như một thứ lợi ích lâu dài... Đấy bạn xem, mới qua có bốn năm năm, chỉ một việc nhỏ như thế đã sai lệch đi đến vậy, và mỗi người một ý kiến khác nhau, chả trách, những việc từ triều đại này sang triều đại khác, lại cần đến nhiều nhà đại học vấn “nghiên cứu” đến thế. Ôi! Những cây thạch trắng, những cây dương quy, đứng ở hai bên đường nơi bến đò, bến sông, đã hình thành được một vòm đầy bóng mát, mặt trời chiếu không, lọt, phủ kín bóng mát lên đầu khách tứ xứ qua đường, và bên dưới vòm cây, treo lủng lẳng, những quả thạch ông, những quả thạch bà, giống như những chiếc chuông đồng nho nhỏ; những gốc cây, cùng những bóng mát của nó in bóng xuống dòng sông, êm đềm, xanh màu đậu xanh, đều như cùng cất lên những tiếng binh boong, binh boong...
Anh Mãn Canh bí thư chi bộ đại đội sản xuất. Năm 1956 từ bộ đội phục viên về nhà, được cắt cử vào làm cán sự dân chính của ủy ban tiểu khu, và ở chính chỗ đầu đường bến đò, anh đã gặp cô con gái của một ông chủ quán trọ trong thị trấn. Cô gái vừa giặt xong một làn quần áo và đang cúi đầu xuống nước xem những con cá đòng đong bơi lội trong khe đá. Anh Mãn Canh từ trên đi xuống bến chờ đò, đầu tiên, anh nhìn thấy khuôn mặt trái xoan xinh đẹp in hình trên mặt nước... và anh bỗng thấy giật mình tự hỏi: “Quái! Có phải là giữa ban ngày ban mặt, mình đã gặp phải con tinh của cây phù dung? Không biết nhà nào trong thị trấn đã sinh hạ được một mỹ nhân như thế?”. Anh cán sự dân chính thấy hồn phách mẩn mê. Anh không sợ con tinh phù dung, anh bất giác tiến lại gần hơn, và tiếp tục ngắm nhìn, thầm khen ngợi cái khuôn mặt đẹp đến mê hồn đang in rõ trên mặt nước phẳng, trong như một tấm gương.
Khi ấy dưới mặt nước bỗng hiện lên khuôn mặt của hai người trẻ tuổi. Cô gái giật thót người, mặt đỏ bừng, bực bội thò tay khỏa tan những hình ảnh trên mặt nước sông. Sau đó cô đứng dậy, buồn bã đưa mắt nhìn chéo sang người thanh niên trẻ tuổi. Nhưng ngay lập tức, hai người đều thấy kinh ngạc, xấu hổ, rùng mình như bị điện giật, cùng thốt lên:
- Ngọc Âm! Em đã lớn thế này rồi sao?!..
- Anh Mãn Canh, anh đã về...
Thì ra họ đã quen biết nhau từ khi còn tấm bé. Anh Mãn Canh là con trai ông lão chở đò. Ngọc Âm đã từng theo anh vào rừng đào măng, hái nấm và đi chặt củi. Họ cũng đã từng đứng từ bờ núi bên này, bò sông bên này, hát đối, hát đùa vọng sang bờ sông, bờ núi bên kia. Cô bé Hồ Ngọc Âm hát:
Hỡi chàng bên núi, hỡi chàng,
Có dám bẻ măng, hái củi thì sang bên này.
Liềm đây chị sẽ chém ngay,
Mũi liềm móc mắt, cho biết tay... hỡi chàng.
Cậu bé Mãn Canh hát đáp lại:
Hỡi nàng đanh đá, hỡi nàng,
Có muốn bẻ măng, hái củi thì sang bên này.
Khăn điều anh phủ liền tay,
Kiệu hoa anh rước em ngay về nhà...
Những bài sơn ca cứ mời gọi, thách thức nhau như thế tiếp tục vang lên. Mãn Canh không thua và Ngọc Âm cũng không thắng. Trong lòng cô đầy bực bội phát khùng lên: - “Đồ quỷ, ai ước ao cái khăn điều với kiệu hoa của nhà anh? Xì. xì!”. Nhưng cũng có lúc trong lòng cô lại nghĩ: - “Ừ, để rồi xem, cái ngữ ấy, sau này có mang được kiệu hoa đến rước ta về hay không?...”. Về sau người mỗi ngày mỗi lớn, và Ngọc Âm cũng mỗi năm mỗi hiểu biết thêm. Anh Mãn Canh đi tòng quân. Hồ Ngọc Âm cứ mỗi khi nghĩ đến câu hát trong bài sơn ca: “Kiệu hoa anh rước em ngay về nhà”, thì mặt đã đỏ lên, và tim lại đập thình thình, cùng với nỗi thẹn thùng dịu ngọt.
Một đôi thanh mai trúc mã (1), mặt đối mặt đứng trên cùng một tảng đá. Nhưng cả hai đều ngơ ngẩn cúi đầu, mắt nhìn cắm xuống mũi giầy của mình. Ngọc Âm đi đôi giầy vải chính tay cô khâu lấy, còn đôi giầy của Mãn Canh là đôi giầy giải phóng do bộ đội phát. Lúc đó đúng vào giữa trưa hè, nắng cháy, những con ve trên cây chỉ biết “ve, ve”, ông lão chở đò bên kia sông chính là cha của Mãn Canh, không biết có phải ông đã ngủ khuấy đi mất dưới cái bóng mát của một phiến đá lớn, hay ông chỉ giả vờ ngủ vậy thôi.
- Ngọc Âm, em có đôi tay trắng quá, cứ y như chẳng bao giờ phải làm lụng gì ấy.
Anh cán sự dân chính phải cất lời trước như vậy. Nhưng nói xong anh lại cụp mắt xuống, hối hận vì chẳng biết nói gì nên đã nói liều nói lĩnh.
- Ai bảo thế? Ngày nào em chả làm lụng. Chẳng đội mũ, chẳng che dù, không hiểu sao mà em vẫn chẳng bị cháy nắng... Không tin à? Đây, anh xem, tay em đầy chai đây này...
Tiếng nói cô con gái của ông chủ nhà trọ rất nhẹ, nhẹ đến nỗi, hầu như chỉ riêng mình cô nghe thấy. Nhưng anh cán sự dân chính vẫn nghe rõ được.
Bị hiểu lầm nên Ngọc Âm hơi bĩu môi, muốn chìa bàn tay ra cho anh Mãn Canh xem. Nhưng bàn tay lại như cưỡng lại, mới mở ra được nửa chừng đã vội cụp bàn tay vào.
Anh Mãn Canh tỏ ý hối hận nên cười cười, đưa tay mình ra định nắm lấy bàn tay ấy, sờ xem những vết chai tay, nhưng cánh tay như bất lực cũng chỉ giơ ra được nửa chừng, rồi lại rụt về.
Nhưng cuối cùng, anh Mãn Canh cũng lấy đủ được dũng khí, mắt mở to hơn, chớp chớp, nhìn thắng vào người con gái xinh đẹp, trong ánh mắt chứa đầy lời thăm dò:
- Ngọc Âm! Em...
Ngọc Âm như người được ăn cỏ linh chi, nên tâm sự của anh Mãn Canh cô hiểu được:
- Em? Em vẫn là một cô gái vẹn toàn...
Sau đó cô còn cố ý thêm một câu:
- Tức là vẫn chỉ một mình...
Giọng anh Mãn Canh bỗng run rẩy, người anh căng lên, khiến cho bộ quân phục trên người như muốn bật tung ra, anh dang rộng đôi cánh tay, như muốn chồm tới:
- Ngọc Âm!
- Anh... dám!
Nói xong, Ngọc Âm lùi lại, và trong cặp mắt cô bỗng lăn ra hai giọt lệ, giống như một đứa bé bị bắt nạt.
Anh Mãn Canh thấy vậy, trong lòng bỗng bật ra một tình cảm, một trách nhiệm, như của một người anh cần phải bảo vệ cô em gái, nên giọng nói và thần sắc của anh ngay lập tức trở lại dịu dàng.
- Thôi, thôi, bây giờ anh không... Thôi, thôi, em về nhà đi, chắc là chú với cô ở nhà đang thắc thỏm mong em và không yên tâm vì em đấy. Cho anh gửi lời hỏi thăm cô chú nhé!
Hồ Ngọc Âm xách làn quần áo lên, gật gật đầu:
- Thầy mẹ em cũng đã cao tuổi rồi, lại đầy bệnh tật...
- Ngọc Âm, thế nào anh cũng sang thăm em!
Từ bờ bên kia, con đò đã sang ngang.
Hồ Ngọc Âm lại gật gật đầu, gật thấp đến nỗi, cằm cô chạm vào cổ áo. Cô xách làn quần áo, lần theo từng bậc đá bước lên, nhưng cứ vài ba bước, cô lại ngoảnh cô lại một lần.
Anh cán sự dân chính trở về đến ủy ban khu vô cùng vui vẻ, thoải mái.
Bí thư khu ủy Dương Dân Cao là người bản địa, rất chú trọng đến việc bồi dưỡng những cán bộ là ngươi địa phương. Ở khu ủy, ở ủy ban khu, trong lớp cán bộ trẻ, tuổi vào độ đôi mươi, người được ông chú trọng nhất là anh cán sự dân chính Lê Mãn Canh. Lê Mãn Canh thuộc loại rễ tốt giống tốt, có tài, tư tưởng thuần chất, tác phong đứng đắn. Nhận xét của bộ đội rất tốt, phục vụ trong quân đội năm năm đã từng bốn lần lập công, xếp hạng ba. Khi ấy, huyện ủy đang chủ trương bỏ cấp khu, dồn xã, Dương Dân Cao sẽ được điều về huyện ủy phụ trách tài mậu. Nên ông đã kiến nghị với huyện ủy đề bạt Lê Mãn Canh về làm chủ tịch, kiêm bí thư đảng ủy một xã lớn miền núi: xã Phù Dung. Tổ chức huyện ủy cũng đã tìm Lê Mãn Canh để bàn bạc, tham khảo ý kiến, chỉ còn chờ chính thức giao công việc nữa mà thôi. Khi ấy cô cháu quý hóa của bí thư Dương Dân Cao, đang công tác ở thương nghiệp huyện về ủy ban khu tìm hiểu tình hình công tác cung tiêu. Tất nhiên là ngày ba bữa cơm và nghỉ ngơi đều diễn ra tại nhà ông cậu bí thư. Bí thư Dương không biết là vô tình hay hữu ý, mỗi bữa, ông đều bảo anh cán sự dân chính đến nhà bếp mang cơm về cùng ăn. Anh cán sự dân chính đã từng nghe phong thanh rằng, cô cháu gái của bí thư khu ủy có nhiều chuyện tình ái ở huyện, tùm lum như khỉ bẻ ngô, bẻ một bắp, quẳng đi một bắp, lòng thòng rất lung tung. Ở bàn ăn, không thể không liếc nhìn cô gái ấy: Đúng vậy, ăn mặc theo mốt Tây, mỗi khi đến bữa ăn, liền cởi bỏ chiếc áo khoác bằng tơ bóng loáng, màu vàng thóc, chỉ mặc mỗi một chiếc áo cộc không tay không cổ, để lộ ra cả đôi cánh tay tròn lẳn, trắng nõn nà như tuyết trắng, ở phía bên dưới cổ cũng để lộ ra lớp da thịt, nửa kín, nửa hở, dễ khiến người ta liên tưởng tới những chuyện lơ mơ. Cái bộ ngực cao vống, làm gồ lên hai cái hạt như hai cái khuy, đối xứng với nhau ở bên phải và bên trái trong lần áo lót. Đến ngay như bí thư Dương Dân Cao, người cán bộ lãnh đạo, quanh năm, bốn mùa vùi đầu trong việc, vậy mà khi ngồi ăn cơm cũng không tránh khỏi đôi lúc liếc nhìn đôi cánh tay phốp pháp cùng cái vùng trắng nõn nà bên dưới cổ với đôi nét cười kín đáo, khó ai có thể nhìn ra được. Cô cháu ngoại của bí thư Dương đã là một cô gái hiểu biết sự đời, đưa cặp mắt táo bạo, biết nói biết hát liếc đi, quét lại trên khắp người anh cán sự dân chính, như muốn cuỗm cả hồn lẫn phách anh đi. Lê Mãn Canh chưa từng bao giờ bị những nữ đồng chí của mình “càn quét” bằng cặp mắt sáng long lanh như vậy, nên tai mặt luôn đỏ gay, chân tay luống cuống, đến nỗi cứ phải cúi mặt xuống, đếm chân bàn, chân ghế.
Tổng cộng ăn với nhau bốn bữa cơm bên chiếc bàn ấy mà họ mới chỉ biết được tên nhau là “Tiểu Lê”, “Tiểu Lý”. Hôm sau, sau khi tiễn cô cháu ngoại ra về, bí thư Dương cười tít mắt hỏi:
- Thế nào? Hử? Thế nào?
Lê Mãn Canh đầu óc rối bời, không biết ứng phó ra sao, nên ngớ ngẩn hỏi:
- Thưa đồng chí bí thư, cái gì à? “Thế nào” cái gì ạ?
Thật đúng là đàn gẩy tai trâu! Một quân nhân phục viên, ngoài hai chục tuổi đầu, sao mà lại ngốc nghếch, dở hơi đến thế. Rõ ràng là vừa mới tiễn đưa một người con gái như nụ hoa, thế mà lại dám mở miệng ra hỏi ông cậu rằng: - “Thế nào” cái gì ạ?
Ngay tối hôm đó, bí thư khu ủy cho tìm anh cán sự dân chính đến, mở một cuộc nói chuyện vô cùng nghiêm túc. Điều đó đối với Dương Dân Cao mà nói, đã là một sự xuống nước và quỵ lụy quá đáng rồi. Nếu như thay vào đó là một cán bộ thanh niên khác, anh ta đã sớm chuẩn bị đủ “gà rượu” đến hiếu kính, phụng dưỡng rồi, rồi từ nước rửa mặt, tới nước rửa chân lúc nào cũng phải đầy phè. Bí thư Dương Dân Cao lấy danh nghĩa là ông tơ, lại lấy danh nghĩa là người có quyền uy cao nhất, nói về tiền đồ chính trị, về sự sắp xếp đời sống gia đình của hai trẻ một cách hết sức rõ ràng chu đáo. Có thể nói do thói quen của người lãnh đạo, ông đã bố trí sắp xếp, như phân công cho cán bộ dưới quyền đi hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Rồi vẫn giống như giọng điệu lúc ban trưa, bí thư khu ủy hỏi:
- Thế nào? Hử? Thế nào?
Không ngờ rằng, anh cán sự dân chính miệng lại cứ câm như thóc, mắt mũi cứ lấm la lấm lét, lâu lắm mới, phì ra được một cái rắm ngầm:
- Cảm ơn sự quan tâm của thủ trưởng, xin hoãn cho tôi dăm ngày, để tôi suy nghĩ cho kỹ đã...
Điều đó đã làm bí thư khu ủy giận điên lên, đôi mắt ông tối sầm lại, và muốn ngay lập tức mắng thẳng vào mặt anh ta một trận: - Thật là đồ ngạo nghễ điên cuồng, không còn coi lãnh đạo ra cái gì nữa, anh chỉ là một thằng cán sự dân chính to bằng hạt vừng, nhưng lại cứ tưởng mình là quan trạng nguyên, đợi để đi làm phò mã chắc?
Anh cán sự dân chính lợi dụng việc đi công tác, tạt về thị trấn Phù Dung. Liệu anh chàng nối dõi của ông lão chở đò, và cô con một của ông chủ nhà trọ kia, có gặp gỡ nhau trên tấm đá xanh ở bến đò, có bàn bạc với nhau những gì đó không, không cần nghĩ cũng biết được. Khi ấy, không biết căn cứ vào văn kiện số bao nhiêu quy định: Tất cả những đảng viên cộng sản, thậm chí đến cả những phần tử tích cực ngoài Đảng, khi tính chuyện yêu đương đều phải thành khẩn báo cáo trước với tổ chức Đảng, và phải chờ sau khi được tổ chức đồng ý, tình cảm mới được tiếp tục phát triển, để bảo đảm cho được thành phần giai cấp đảng viên, cũng như sự trong sạch và tính tin cậy trong quan hệ xã hội. Mấy hôm sau, anh cán sự dân chính đã thành thực, kính cẩn báo cáo với bí thư khu ủy chuyện riêng của mình.
Bí thư khu ủy Dương Dân Cao không thay đổi sắc diện, nửa nằm nửa ngồi trên ghế xích đu, hai chân gác cao bằng đầu, trông giống như hình một con tôm đực. Tay ông cầm một que diêm gảy gảy những sợi thịt, sợi rau còn mắc lại sau bữa ăn, và nói cũng theo kiểu xỉa răng loại bỏ những sợi rau, sợi thịt...
- Xin chúc mừng, chúc mừng! À thì ra đã kết với cái cô tiểu Tây Thi ở thị trấn Phù Dung rồi đấy.
- Chúng tôi quen biết nhau từ thuở bé khi cùng đi đào măng, hái nấm.
Mặt anh cán sự dân chính cũng đỏ như một con tôm luộc.
- Cô ta thuộc thành phần giai cấp nào?
- Có lẽ là tiểu chủ, tương đương với trung nông lớp trên.
- Có lẽ? Tương đương với? Đây có phải là lời lẽ của một người cán sự dân chính không? Người đảng viên cộng sản phải làm gì?
Bí thư Dương Dân Cao như chợt bừng tỉnh, vừa nói vừa chồm dậy khỏi ghế, mắt ông trợn lên trông giống như chiếc bóng đèn điện hai nhăm oát.
Anh cán sự dân chính ngượng đến chín người, giống y như hồi còn bé chui vào vườn nhà người ta vặt quả bị chủ nhân bắt quả tang:
- Tôi... Tôi...
- Tôi lấy danh nghĩa là tổ chức, nói cho anh biết, đồng chí Lê Mãn Canh ạ. Lão chủ nhà trọ ở thị trấn Phù Dung, trước cách mạng đã từng tham gia bang Xanh Đỏ, còn mụ vợ lại càng phức tạp hơn, đã từng làm gái thanh lâu ở cửa một con sông lớn. Đồng chí cần phải phân biệt cho rõ ràng, con gái nhà kỹ nữ, mới yểu điệu, xinh đẹp như thế...
Bí thư Dương Dân Cao lại ngả người kiểu nửa nằm, nửa ngồi trên ghế, bí thư đã từng công tác nhiều năm ở địa phương này, bách tính quanh vùng, nhất là những người có lịch sử xuất thân không trong sạch, cùng những cái vẩy, cái vết trong quan hệ xã hội, ông đều có sổ sách ở trong bụng, ghi chép đầy đủ các thành phần giai cấp.
Anh cán sự dân chính gục mặt, cúi đầu, chỉ một suýt nữa thì rơi nước mắt.
- Cậu Lê này, căn cứ vào luật hôn nhân. Cậu được tự do tìm kiếm người yêu. Nhưng tổ chức đảng cũng có quy củ của tổ chức Đảng. Cậu có thể lựa chọn, một là giữ lấy đảng tịch, hai là cứ lấy cô tiểu thư của lão chủ nhà trọ làm vợ!
Bí thư Dương Dân Cao làm là làm việc công, nói là nói nguyên tắc. Đương nhiên rằng, ông không hề nhắc một câu nào tới cô cháu ngoại thân yêu, đã như một trái đào chín nuỗng của mình.
Từ quân ngũ tới địa phương, từ giản đơn đến phức tạp, anh cán sự dân chính như một ngọn cây bị rụng lá do tuyết rơi sương phủ, chỉ trong mấy ngày mà anh gầy rộc hẳn đi. Nhưng sự việc đâu chỉ có thế. Khi bí thư huyện ủy chính thức tuyên bố bỏ cấp khu mở rộng cấp xã, và công bố danh sách cán bộ lãnh đạo các xã lớn, không có tên anh cán sự dân chính. Ngược lại anh nhận được thông báo điều động anh đi làm cấp dưỡng trong một nhà ăn tập thể xã. Bởi vì khi anh chuyển từ bộ đội về địa phương, vốn không thể làm cán sự dân chính được, mà chỉ có thể làm nhân viên công vụ.
Lê Mãn Canh không đến nhận việc ở xã mà anh được điều động tới. Anh trở về ngôi nhà đất trên bến đò thị trấn Phù Dung, chở đò thay cho người cha già đã cao niên. Vì không leo cao, nên cũng không thể coi là đã bị ngã đau. Con ông lái đò lại làm lái đò, sử sách xưa nay vẫn nói vậy. Con đò, lênh đênh trên mặt nước, vốn là nghiệp nhà.
Trong một tối trăng thanh gió mát, Lê Mãn Canh và Hồ Ngọc Âm đã gặp mặt nhau, vẫn ở chốn xưa, trên tấm đá xanh nơi bến nước. Cứ như bây giờ, thế mà lại hay, tự tay Lê Mãn Canh chèo đò qua sông, hai người thường luôn được gặp mặt nhau.
Hồ Ngọc Âm nước mắt ròng ròng. Dưới vầng trăng, ánh sáng hắt lên từ đáy nước, khuôn mặt dịu dàng trong sáng của cô đẹp như vầng trăng tròn lơ lửng, trên trời:
- Tại em! Tại em tất cả! Anh Mãn Canh ạ...
- Ngọc Âm, thôi em đừng khóc nữa. Lòng dạ anh cũng đau như cắt...
Lê Mãn Canh, cao lớn, rõ ràng là đấng nam nhi, anh không thể khóc được. Một con người đã được bộ đội rèn giũa, dù dao đâm gươm chém cũng không được khóc.
- Anh Mãn Canh! Em hiểu rồi... Đảng và em, anh chỉ có thể chọn một... Em không xứng đáng, em cao số. Một ông thầy bói đã đoán số cho em, em chỉ nói cho một mình anh biết thôi: Em cao số, khắc phu...
Hồ Ngọc Âm sụt sùi, tràn đầy tức giận. Lớn đã ngần ấy rồi, mà cô chưa hề biết giận ai, người ta cũng chưa ai từng giận cô, cô chỉ giận mình.
“Em nói cái gì thế, giải phóng đã sáu, bảy năm rồi, mà em vẫn còn phong kiến, mê tín!”. Nhưng Mãn Canh không thể nhẫn tâm bắt bẻ cô. Cô thật đáng thương và cũng thật thơ ngây, yêu kiều, giống như một bóng cây mộc phù dung in hình xuống nước, em chỉ khỏa tay nhẹ một cái, mà tất cả đã cồn lên, tan nát.
- Anh Mãn Canh, thôi thì em nhận anh làm anh nuôi vậy! Được không? Còn anh, anh nhận em làm em nuôi. Một khi ta đã không thành duyên thành phận...
Cái tấm tình si, cái tấm lòng si đó của em, đến sắt thép cũng phải chảy, phải tan. Lê Mãn Canh hầu như đứng không còn vững nữa, người anh như phát điên lên! Anh choàng tới, ôm chặt lấy người thương yêu vào lòng và đặt lên môi cô một nụ hôn.
Một lát sau, Ngọc Âm gục đầu lên vai Mãn Canh mà khóc:
- Anh Mãn Canh, người anh vô cùng thân thiết của em, vô cùng quý mến của em!
“Vô cùng thân thiết”, “vô cùng quý mến”... đó là lòng tín nhiệm, và cũng là trách nhiệm. Lê Mãn Canh nới lỏng vòng tay. Một bầu dũng khí nam nhi bỗng tràn đầy trái tim anh, tràn đầy lồng ngực anh. Trong phút giây thần thánh ấy, mối quan hệ giữa chàng và nàng đã thay đổi. Cái luân lý của người miền núi chất phác, luôn luôn được đưa lên hàng đầu, luôn luôn chiến thắng. Trên mảnh đất tình cảm chủ nghĩa ấy, đã nuôi dưỡng và sản sinh ra những người anh hùng.
- Em gái Ngọc Âm, kể từ hôm nay, em sẽ là em gái ruột của anh... Anh với em tuy cách một con sông, nhưng vẫn là người trong một thị trấn. Trong cuộc đời này, trong thế gian này, lúc nào anh cũng luôn sát cánh bên em.
Đó là lời hứa, lời thề trang nghiêm của cuộc sống.
Chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống Lý Quốc Hương cần gặp bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn, để tìm hiểu tĩnh hình về thành phần giai cấp của cô bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm, cùng với lịch sử bản thân cũng như thái độ hiện nay, nhưng đã tìm sai người. Chị ta đã ra đến bờ sông, xuống bến đò, mới giật mình hiểu ra một điều: Bí thư chi bộ đại đội sản xuất chính là anh cán sự dân chính trên ủy ban khu ngày xưa! Mẹ ơi! Gặp ma rồi! Mọi người đều đang lên đò, chị ta vội vàng lùi gót.
- Ồ! Nữ cửa hàng trưởng! Cán bộ đi đâu đấy ạ?
Chị ta bắt gặp một người vừa từ trên đò bước xuổng, đó là Vương Thu Xá, một cái “rễ phong trào” của các cuộc vận động.
Vương Thu Xá khoảng độ ba nhăm, ba sáu tuổi, dáng người nhanh nhẩu, gọn gàng, ăn mặc lại chải chuốt bảnh bao. Lý Quốc Hương nở nụ cười lịch lãm với anh ta, và trong lòng bỗng chợt lóe lên một ý nghĩ:
Đúng rồi! Vương Thu Xá là một cái “rễ phong trào” nổi tiếng ở thị trấn, gặp phong trào nào, cuộc vận động nào anh ta cũng là phần tử tích cực, phải hỏi anh ta về tình hình của Hồ Ngọc Âm, vừa được việc lại vừa đỡ tốn sức.
Thế là họ vừa đi vừa nói chuyện, mới bập vào, đã vô cùng tương đắc, giống y như hai người bạn thân đã nhiều năm không gặp mặt vậy.
Chú thích:
(1) Đôi nam nữ, lúc còn nhỏ, thường vui chơi, đùa nghịch với nhau một cách hồn nhiên, vô tư. (N.D.).