← Quay lại trang sách

NGƯỜI CHỦ CỦA NGÔI NHÀ SÀN

Nhắc lại chuyện Lý Quốc Hương gặp Vương Thu Xá ở đầu bến đò qua sông, quả có thể coi đó là một nhân vật của thị trấn, về thành phần xuất thân mà nói, anh ta còn ưu tú hơn cả bần nông lớp dưới: cố nông. Bần nông và trung nông lớp dưới chỉ có thể được tính là người bán vô sản ở nông thôn. Vàng không có giả, kỳ lân không có thật, còn anh ta, Vương Thu Xá đúng là giai cấp vô sản thập thành. Điều tra cả ba đời bảy kiếp, cả cha mẹ đẻ anh ta đều chẳng là cái thứ gì, cũng không biết từ năm tháng nào, anh ta đã lang bạt từ huyện Hà Châu đến cái góc biên địa thị trấn Phù Dung này làm một đứa trẻ ăn xin. Như thế, còn nói gì đến đời ông của anh ta, đời ông cũng chẳng có chú bác, cô gì, cậu mợ, ông nhạc bà ngoại cùng những quan hệ bạn bè thân hữu phức tạp khác. Đúng là phải tính lịch sử xuất thân của anh ta thanh sạch, và quan hệ xã hội trong trắng, trắng như là không có gì vậy. Đã sạch sẽ, thuần khiết như thế, vô cùng thích hợp với việc lên giời, hay ra nước ngoài, có điều sức chịu đựng của anh ta rất tồi, không đi máy bay được, lại thiếu văn hóa, ra nước ngoài không đọc được tiếng Tây, không nghe được tiếng Tây. Điều đó đều quy vào việc anh ta đã chẳng gặp thời trong xã hội cũ, từ nhỏ đến lớn chỉ chui rúc trong miếu hoang, chùa đổ. Năm cải cách ruộng đất anh ta mới hai mươi hai tuổi, nhưng đã từng đi đánh phèng phèng thuê tới năm năm ròng trong các miếu mạo của thị trấn này. Anh ta mồm mép bẻo lẻo và nhanh chân nhanh tay, đầu óc cũng không đến nỗi ngu đần, lại biết dăm ba chữ, chạy việc vặt trong các miếu mạo, nhìn sắc mặt các ông chủ là anh ta đã biết cách đưa đẩy, cung phụng, vô cùng mẫn cán. Tất nhiên cũng đã nhiều lần ăn đấm xơi đạp, nếm những cái bạt tai tê mặt, mà chẳng có lý do gì hết. Cứ theo như những lời tố khổ của anh ta trong các cuộc họp mà nói thì ăn cơm chan nước mắt, húp nước canh mật đắng, mặt mày bị người ta coi như cái thớt mổ cá, vai cổ bị người ta đem ra làm ghế ngồi, nghèo tới mức 17, 18 tuổi vẫn mặc quần thủng đít, muốn thắt cổ tự tử cũng chẳng có lấy một sợi thừng gai.

Anh ta được coi là “rễ” của cải cách ruộng đất. Cứ theo như cái tài mép, tài bụng anh ta, đáng ra anh ta phải là những “đồng chí công tác đội”, mặc chế phục, trên túi đeo một chiếc bút máy mạ vàng kia; nhưng khi anh ta vươn mình từ “lớp người dưới người” lên được “lớp người trên người”, anh ta lại không chống đỡ được với những thử thách. Từ trên đài lập trường giai cấp, xây bằng những tấm đá xanh trong sạch, bóng lộn có thể soi gương được, anh ta đã bị lộn nhào xuống: Đội công tác giao cho anh đến canh gác số của nổi của một gia đình địa chủ đã trốn khỏi địa phương trong thị trấn, nhưng anh ta đã trượt chân ngã tùm xuống nước, anh ta đã rúc đầu vào chiếc giường khảm ngà voi, cùng với cô vợ bé của tên địa chủ đã chạy trốn, bỏ lại, giống như cá gặp nước, khiến anh ta mơ hồ cảm thấy rằng đây mới là cái mùi vị chính thức của cuộc “vươn mình”, mà trước kia đối với loại người như cô vợ bé của tên địa chủ này, ngay chuyện chính anh ta lại vớ được, cha chả là vui vẻ. Cái “Quan điểm vươn mình” này của anh ta đương nhiên chính sách của chính phủ nhân dân không thể chấp nhận được và kỷ luật của đội công tác cũng không cho phép. Cái cô vợ bé đã dùng “mỹ nhân kế” ấy, đã phải chịu những hình phạt thích đáng, và anh ta “rễ cải cách” cũng mất tiêu luôn cái tiền đồ làm một “đồng chí công tác”. Nếu không, cho đến nay, Vương Thu Xá đã là một vị cán bộ huyện đoàn, ngồi xe jeep, quản lý hàng triệu hàng vạn nhân khẩu rồi. Anh ta khóc lóc với nước mũi ròng ròng trước đội công tác, tự vả vào miệng mình, đến bật cả máu mồm, máu miệng ra. Đội công tác thương anh ta có hận lớn, thù sâu, lại thành thực hối lỗi, nên vẫn giữ nguyên cho anh ta cái thành phần cố nông, và “rễ cải cách”; khi chia quả thực thắng lợi anh ta vẫn được ưu tiên loại một. Anh ta được chia cho đủ quần áo bốn mùa, đầy đủ chăn đệm, và hai mẫu ruộng nước, không kể được chia thêm một mẫu đất tốt, nhưng điều không thể tưởng tượng là anh ta được chia một ngôi nhà sàn treo, được dựng ở ngay phố Đá Xanh ngoài thị trấn.

Ngôi nhà sàn, vốn do một tên ác bá vùng núi dựng lên, toàn bằng gỗ theo kiểu biệt thự, dùng để nghỉ chân, chơi gái và nghe hát trong mỗi phiên chợ khi hắn ghé chân tới đây; bên trong, đồ đạc được vẽ rồng vẽ phượng, sơn son thếp vàng, không thiếu một thứ gì. Có mỗi một điều Vương Thu Xá quên mất là không yêu cầu chia cho mình nông cụ và trâu cày. Nhận được món quả thực ấy, quả đã làm hắn mất ăn mất ngủ mấy ngày liền, mỗi khi nhắm mắt lại, hắn cứ tưởng rằng mình đang nằm mơ, một giấc mơ giàu sang phú quý. Tiếp theo đó, hắn thấy đầu váng, mắt hoa, và nảy sinh những ý nghĩ lạ lùng đến tồi tệ: Thằng Vương này, nay có được bấy nhiêu của cải, chỉ việc ngủ vùi cũng vẫn có ăn, nên ngày nào cũng phải có chất tươi, bữa nào cũng làm hai lạng rượu; đồ đạc, dụng cụ trong cái nhà sàn này bán đi cũng đủ ăn chín, mười năm. Như nay đảng cộng sản lãnh đạo đầy uy lực, chính phủ nhân dân lỗi lạc tài ba, tiền đồ của xã hội mới, là vô bờ bến. Cứ theo như các văn kiện, các tài liệu của các đồng chí trong đội công tác, tuyên truyền mà xét, chỉ trong vòng chín, mười năm nữa sẽ xây dựng xong xã hội chủ nghĩa, và tiến lên cộng sản chủ nghĩa rồi. Khí ấy, ăn của công, mặc của công, ở của công, tiêu của công, thật là sung sướng hết mình, chứ gì nữa? Đến nay cả cái xác hơn một trăm cân thằng mình đây cũng đều là của công tất, mày còn đòi hỏi gì nữa? Ha ha ha! Ai cần cái gì? Thằng này bán tất, bán hết! Lúc nào hắn cũng chỉ nghĩ tới cái sự kỳ diệu đó của xã hội mới, hắn vui sướng mê tơi, đến mức lăn lộn, hoa chân múa tay trên chiếc giường chân cao, sơn son thếp vàng.

Nhưng những ngày sau cải cách ruộng đất tình hình lại chẳng diễn ra như ảo tưởng mỹ miều của hắn trên chiếc giường chân cao sơn son thếp vàng trong ngôi nhà sàn. Từ nhỏ khi chui rúc trong những ngôi miếu hoang, chùa đỏ, anh ta đã có thói quen “ăn cơm sống của thiên hạ”: làm việc vặt. đánh phèng phèng, quét dọn, mà lại không học được những “công việc chết của thiên hạ” như cày bừa, đánh luống, trồng ngũ cốc. Dù ruộng tốt, đất đai màu mỡ cũng không tự nó sinh ra được hạt thóc, hạt mì, mà nó đòi người chủ đất phải đổ công đổ sức vào đấy, tưới vào đấy những giọt mồ hôi đen. Người không lừa dối đất, đất sẽ không lừa dối cái bụng người. Những khi cấy hái, mặt phải bán cho đất, lưng phải bán cho trời, đau đến gãy lưng, đào đất, đắp bờ nắng đến cháy da cháy thịt, còn làm những việc thổ mộc, bụi bặm tắc mũi tắc họng, mồ hôi trên ngươi hết khô rồi lại ướt, thật đúng là một hạt thóc, ngàn giọt mồ hôi. Anh ta chán ngán, không chịu đựng nổi cái khổ, cái bẩn và cái mệt. Anh ta sinh ra đâu phải để làm một người nông dân chân chính, mà anh ta sinh ra cho người ta sai vặt, chạy quanh, ăn cơm hớt thiên hạ. Vài ba năm gần đây, trên ruộng của anh ta cỏ cao hơn lúa, đất cát trở thành tổ thỏ, hang chuột, cuối cùng thì dứt khoát “dẹp tiệm”, cào, cuốc vứt xó nhà, liềm, hái mặc cho sét gỉ. Anh ta lặng lẽ, ngấm ngầm bán dần tất cả những quả thực thắng lợi đã được chia trong cải cách ruộng đất, giường tủ, hòm xiểng đều trở thành nhân dân tệ. Nhân dân tệ tuy in bằng giấy, kêu xoàn xoạt, nhưng so với tiền “Cụ Viên” kêu leng keng, loong coong trước giải phóng, còn có ích hơn nhiều. Anh ta vào nhà hàng, vào tiệm rượu, nhưng chưa bao giờ dám ăn uống đầy diều đầy tễ, vung tay quá trán, mà là ăn ít, dùng dần, ăn dè được lâu, nhưng cũng phải ăn uống cho mặt đỏ tưng bừng, nhờn môi nhờn mép, người béo mập, béo phì. Những cư dân trong thị trấn, có khi hàng tháng, hàng nửa tháng, chẳng thấy ở nhà sàn có khói bếp bốc lên. Cứ ngỡ rằng anh ta học được một thứ đạo pháp nào đấy, một thứ phép tiên nào đấy, nên gà vịt, rượu chè đều được sắp sẵn chỉ cần phẩy tay một cái là hiện ra, phất tay một cái là biến mất, nên ngay đến cả mâm bát, đũa thìa cũng không phải mó tay vào rửa ráy.

Người ta thường nói: “Kiếm tiền như đãi cát tìm vàng. Tiêu tiền như hàng hàng sóng cuộn”, “miệng ăn núi lở”. Mấy năm ròng quanh quẩn, Vương Thu Xá cũng chẳng kiếm nổi lấy một mụ vợ, đồ đạc trong nhà sàn, mười thứ, đã tám thứ đội nón ra đi. Ngay cả đến áo quần cũng chằng đụp xộc xệch, lại bắt đầu hiện cái cảnh lôi thôi nhếch nhác trước lúc vươn mình thời cải cách ruộng đất. Dân cư trong thị trấn đã đặt cho anh vô khối biệt hiệu. Một là “Vương Thu Nợ”, vì một năm bốn mùa chuyên mua chịu, vay nợ để sống qua ngày; một tên nữa là “Vương Thu Rắn”, vì vào mùa thu, rắn sắp đi ngủ đông, nên lười biếng ít hoạt động; một tên nữa là “Vương Thu Xa”, ý nói đến tiền bạc đã lọt qua kẽ tay của anh ta, chỉ trong vòng mấy năm, anh ta ăn tiêu xa xỉ, phá tan hết cả sản nghiệp (1). Còn anh ta thì bảo rằng, những người đặt tên hiệu cho anh ta như thế, là chẳng có một tý tỵ gì tình thương yêu giai cấp cả. Trong khi đó, những người cùng một lớp vươn mình, cùng là “rễ cải cách ruộng đất” với anh ta, trong mấy năm nay đều ăn nên làm ra, người mua trâu cày, người xây bịch thóc, người cất nhà mới, rồi từ già đến trẻ trong gia đình, đều có quần áo mới, vui tươi đổi đời hết cả. Anh ta nhìn họ mà thèm rỏ dãi. Anh ta mong mỏi đến một ngày nào đó sẽ có một phong trào cải cách ruộng đất mới, rồi lại được chia quả thực thắng lợi mới.

- Mẹ kiếp! Nếu như bố mày nắm quyền, thi hành chính sách thì mỗi năm một lần quy định lại thành phần, mỗi năm tiến hành một lần cải cách ruộng đất, mỗi năm một lần chia quả thực!

Anh ta nằm trên mảnh chiếu rách trong nhà sàn, hai tay khoanh lên làm gối, mơ mộng nghĩ ngợi phán xét: ai đưa vào thành phần địa chủ, ai đưa vào thành phần phú nông, ai nên đưa vào thành phần trung nông, bần nông. Còn anh ta thì sao?

- Chủ tịch nông hội! Trừ thằng này ra, mẹ kiếp, còn đứa nào đủ tư cách hơn nữa chứ?

Tất nhiên, chính anh ta cũng hiểu rằng, đó chỉ là điều nghĩ cho vui trong lúc túng quẫn. Được may mắn chia quả thực như thế, bao nhiêu đời người mới có một lần thôi.

Năm 1954, ở thị trấn có thành lập mấy tổ đổi công. Anh ta cũng đứng lên xin đưa ruộng đất của mình vào tổ. Mọi người đã thấy rõ là anh ta không thể tham gia được, anh ta không cày bừa, gặt hái gì hết, cho anh ta vào có khác gì cho phép anh ta thu tô? Vì thế mà chẳng có tổ nào thu nhận anh ta. Cho mãi đến khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp, đi theo con đường hợp tác hóa, anh ta mới trở thành một xã viên hợp tác xã nông nghiệp. Trong hợp tác xã có ban quản trị, trong ban quản trị có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và một số người nữa, bên dưới là một số đội sản xuất, rồi có tổ chuyên, vì thế phải luôn luôn có những cuộc họp, cũng cần phải có chân chạy công văn, chỉ thị, vân vân, việc đó đòi hỏi người thi hành phải có bản chất tốt, có cơ sở chính trị đáng tin cậy, phải nhanh chân mau miệng, đến đây mới gọi là lúc Vương Thu Xá gặp thời, đứng vào một vị trí xứng dáng, có được đất dụng võ.

Trong cách đối nhân xử thế của Vương Thu Xá còn có một điểm đáng nói nữa là: anh ta rất chịu khó giúp đỡ bà con trong phố phường. Tất cả mọi nhà trong thị trấn, trừ những nhà thuộc phần tử loại 5, bất kể nhà nào có việc dựng vợ gả chồng cho con cái, các ông già bà cả quy tiên, tóm lại là việc hiếu việc hỷ, bao giờ anh ta cũng không cần mời, anh ta tự đến, giúp căng bạt, xếp ghế, chạy đi mua thịt mua rượu, chuẩn bị lễ vật, bày biện sắp xếp cỗ bàn, việc gì cũng làm. Anh ta tận tâm, tận lực, quên ngày quên đêm, góp vui, cũng là góp phần làm mấy bữa rượu, ngoài ra còn thêm bữa ăn đêm. Ngay cả đến những công việc bình thường, như nhà nào đó thịt chó, mổ lợn, anh ta cũng nhất định xin giúp một tay, nào bắc nồi, đun bếp, nào cạo lông, làm lòng, rồi chạy đi mua rượu, mua thuốc và vô hình trung, trong thị trấn, anh ta có một thân phận đặc thù: “Thằng Mõ” của nhân dân thị trấn. Còn anh ta tự gọi mình là “chân chạy”.

Ngoài một chút “nhân duyên” đó với nhân dân thị trấn, anh ta còn “được lòng” cả cấp trên. Anh ta sống độc thân, lại ở cả một ngôi nhà thênh thang, đàng hoàng, phòng ốc rộng rãi, cho nên tất cả các đồng chí công tác thuộc loại “ăn tập thể” từ trên huyện trên khu về đây, nói chung đều thích đến ngôi nhà sàn đó nghỉ ngơi, ngủ lại. Ván sàn ngôi nhà sàn khô ráo, phía trước phía sau đều có hành lang ngồi nghỉ, không khí trong lành, các đồng chí công tác tất nhiên thích lắm. Do đó mà Vương Thu Xá đã làm quen được với một số cán bộ trên huyện trên khu. Các đồng chí cán bộ này xuống xã đều có tình thương yêu giai cấp. Thấy cảnh chủ nhân ngôi nhà sàn mới được vươn mình sau cải cách ruộng đất, vẫn chưa kiếm được vợ, vẫn những thứ chảo sứt, bát mẻ, bếp nứt, trên giường thì chiếu manh, chăn rách, màn thủng, vẫn chỉ là một hộ bần cố nông, trong tình trạng phân hóa hai cực ở nông thôn. Cho nên, hàng năm mỗi lần có tiền cứu tế mùa đông, hay mỗi vụ xuân hè có gạo trợ cấp giáp vụ, người đứng đầu trong danh sách thường vẫn là Vương Thu Xá. Hơn thế nữa cứ cách độ vài ba năm, anh ta còn nhận được món trợ cấp quần áo bông. Hình như những cán bộ cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh đều chỉ vì có Vương Thu Xá, cùng những người “anh cả, anh hai” như Vương Thu Xá. Vậy mà vẫn đói vẫn rét. Trước đây ít năm có phong trào đại nhảy vọt, và thắt lưng buộc bụng, dân cùng nước khó, nên áo bông cứu tế phải bốn năm năm vẫn chưa phát được cho Vương Thu Xá một lần, nên Vương Thu Xá càng rách rưới, trên vai, trên ngực lòi ra những lá cao (2), trên vạt áo trước, khuy cúc đứt sạch, không còn lấy một chiếc, anh ta đành phải chịu đựng gian khổ lấy cọng rơm bện lại làm dây buộc, trông thật chẳng còn ra làm sao nữa. Vương Thu Xá cho rằng, chính phủ không cứu tế cho anh ta, tức là “đã có cái gì đó sâu xa, xuất hiện trong xã hội mới” mất rồi. Mùa đông anh ta rét quá, môi miệng run lên bần bật, những dòng mũi xanh chảy thò lò ra ngoài, anh ta bèn chạy đến công xã, tìm bí thư công xã, nói:

- Thưa thủ trưởng thượng cấp, năm 1959 công xã có mở một cuộc triển lãm về quần chúng đấu tranh, đã lấy đi của tôi một chiếc áo bông rách, cái áo ấy so với cái áo tôi đang mặc đây còn khá hơn, thủ trưởng xem có thể mở khóa phòng triển lãm, đổi lại cho tôi có được không ạ?

Cái gì vậy? Đổi áo bông từ phòng triển lãm đấu tranh giai cấp đem ra mặc? Hôm nay không bằng hôm qua à? Thế thì ảnh hưởng lớn tới chính trị mất. Thì ra bộ mặt mới của xã hội lại nằm trên người Vương Thu Xá? Ông bí thư công xã bỗng nhận thấy trách nhiệm to lớn của mình, rồi liên hệ sang lập trường giai cấp, và tình thương yêu giai cấp. Trong khi cơ quan dân chính cấp trên vẫn còn chưa phát đồ cứu trợ xuống, nên ông đành nhịn đau, cởi chiếc áo bông dung dúc đang mặc trên người ra, cho “rễ cải cách” mặc vào, tránh cái rét mùa đông.

“Chính phủ nhân dân là mẹ của áo quần, ăn uống”. Câu nói ấy Vương Thu Xá luôn luôn nhẩm trong miệng, ghi trong lòng. Anh ta không bao giờ quên ơn, mỗi khi có các đồng chí công tác cấp trên xuống xã nắm trọng tâm, phát động phong trào, anh ta lại đánh trống gọi loa, gõ phèng phèng, phát thanh trên chòi, kéo chuông, chạy chân đưa tài liệu, thức đêm canh gác, “lãnh đạo” hô khẩu hiệu trước ở hội trường, tóm lại là rất chịu khó tích cực, đi hàng đầu làm cốt cán. Các đồng chí công tác chỉ đâu anh ta đến đó. Anh ta dựa vào các đồng chí công tác, các đồng chí công tác dựa vào anh ta. Các cuộc vân động chính trị đều cần đến anh ta, và anh ta cũng cần đến các cuộc vận động chính trị.

Chồng của Hồ Ngọc Âm, Lê Quế Quế là một anh chàng đồ tể thực thà ít nói, thường ngày hiếm khi chịu mở miệng, có đập đến ba búa cũng không lòi ra nổi một cái rắm kêu. Không bao giờ suỵt chó cắn người, nhưng anh đã từng buột miệng tổng kết về Vương Thu Xá bằng một bài vè, đã từng được lưu truyền rộng rãi, ảnh hưởng rất xấu. Vè rằng:

“Biếng lười, bẻm mép,

Cấp trên cậy trông!

Sản xuất gắng công,

Cấp trên bỏ mặc!

Thừa tiền thừa thóc,

Cấp trên phê bình...”

Ở đây, xin được giới thiệu thêm một đôi câu: Hồ Ngọc Âm bán canh bánh tráng, Vương Thu Xá phiên chợ nào cũng đến ăn chạc, nhưng lại bảo “ghi nợ”. Bởi lẽ anh ta đã có một sự tính toán chẳng hay ho gì: Hồi cải cách ruộng đất, trong khi chia quả thực thắng lợi, anh ta còn được chia một nền đất làm nhà, nằm ngay bên cạnh quán trọ của ông Hồ Ký. Ngôi nhà sàn cũng đã đủ để anh ta ở một mình, nên còn cần gì đến cái nền đất ấy nữa? Anh ta đã từng đánh tiếng với vợ chồng Hồ Ngọc Âm rằng, chỉ cần bỏ ra một vài trăm đồng bạc, anh ta có thể chuyển nhượng cho cái nền đất ấy. Đồng thời cũng tính rằng, như vậy trong vòng hai năm nay, cũng chẳng phải ăn không, ăn hỏng gì ở cái quán canh bánh tráng ấy. Hơn nữa đường đường một đấng nam nhi, ai dám khinh nhờn trong lúc bần cùng? Triệu Khuông Dận (3) đã từng làm tên vô lại vài năm, Tiết Nhân Quý cũng đã từng ở ba năm nơi lều tranh vách nát cơ mà!

Chú thích:

(1) Trong tiếng Trung Quốc, chữ XA nghĩa là chịu, là nợ; chữ XÀ nghĩa là con rắn: chữ XA là xa xỉ, đều đọc cùng một âm giống như tế XÁ của anh ta. Người ta đã đặt tên cho anh ta theo cách “đồng âm dị nghĩa” như thế, và đây là một lối chơi chữ rất khó dịch. (N.D.).

(2) Những chỗ áo bông rách, thò cả lõi bông ra. (Nguyên chú).

(3) Trước nay nhiều người vẫn gọi nhân vật này là Triệu Khuông Dẫn. Nhưng nay nhiều tự điển không ghi chữ này là “dẫn” mà chỉ thấy ghi là “dận”. Bởi vậy ở đây dùng chữ “dận” theo tự điển. (N.D.).