← Quay lại trang sách

“BỮA ĂN TINH THẦN” VÀ “SÀN HÁT MỪNG”

ANH ĐỒNG CHÍ ƠI, LIỆU ANH CÓ HIỂU THẾ NÀO LÀ “món ăn tinh thần” không? Đó là những năm 1960, 1961, thời ăn uống ở nhà ăn công cộng, dân nhà quê ăn những món đặc sản quê mùa. Những năm tháng ấy, xã viên ở vùng núi Ngũ Lĩnh, mấy tháng liền không biết mùi thịt thà cá mú là gì. Cả năm, khó mà cúng được ông thần khẩu một lần, những chất xơ trong thực phẩm quá nhiều, còn chất béo, chất bổ lại quá thiếu, bầu bí rau dưa càng ăn vào càng cồn cào gan ruột. Bụng lép đến mức da bụng dính vào cột xương sống, yết hầu nhô tếu lên. Tất nhiên rằng món nợ ấy phải đổ lên đầu bọn đế quốc xét lại phản động, và đổ lên cả đầu ông trời nữa. Ông trời, tức là phần tử loại 5, chuyên môn quấy phá nhà ăn công cộng của công xã nhân dân, sau đó thì thanh toán món nợ này với đường lối chính sách của Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, họ phản đối ba lá cờ đỏ và nhà ăn tập thể. Ăn tập thể có gì là không hay mới được chứ? Rau xanh, củ cải đổ vào đun hổ lốn, không cần thêm dầu mỡ gì hết. ngày nào cũng nghĩ lại và so sánh, nghĩ về cái đắng, cảm ơn cái ngọt. “Khổ hay không, hãy nghĩ tới Hồng Quân hai vạn năm ngàn dặm”. Những năm tháng ấy, những con người giải phóng quân tiên liệt đã hy sinh trên núi tuyết, đồng hoang vì hạnh phúc yên vui, vì sự nghiệp giải phóng vươn mình của nhân dân, ai cũng biết rằng họ đã phải ăn vỏ cây, rễ cỏ. Vậy thì tại sao lại có cái nhìn lệch lạc với “thời đại rau dưa” này, thật ]à đáng trách lắm thay! Những xã viên ở miền núi làm sao mà nhìn rõ được, hiểu rõ được những lý luận diệu huyền ẩn giấu trong những lầu gác nguy nga, trong những thâm cung biệt điện. Những diệu lý, huyền luận đôi khi nó giống như bát quái đồ, như mê hồn trận. Nhân dân lấy ăn làm trời, những người xã viên chỉ biết rằng bụng đói cồn cào, mồm xểu đầy dớt dãi. Ăn bánh bột củ cây đuôi chồn vào, phân táo, kẹt ở hậu môn, cứng như sắt, tóe máu, phải lấy tay móc, que đào, sống dở chết dở. Ban ngày còn tạm ổn, nhưng đêm đến, không sao chợp nổi mắt. Tiếp đó, trí tuệ của con người đã đến để bổ sung vào những chỗ trống rỗng. Nên người nọ đã giúp người kia, hồi tưởng, nghĩ lại, kể lại chuyện mình, vào năm nào, tháng nào, ở chỗ nào, nhà nào, đã được đánh chén một bữa tiệc linh đình nhất, nào nguyên một con gà, cả một con cá, những tảng thịt béo ngậy, những chiếc chân giò, bì giòn sần sật, bốn lạng một miếng thịt hầm, thịt hấp, thịt quay, gắp đến cong cả đũa, vân vân. Tất nhiên rằng, người miền núi, thích ăn thịt chó béo vào những ngày tuyết rơi. Một nhà nào đó nấu, nướng thịt chó, hương thơm ngạt ngào cả xóm. Ăn đến nhờn môi nhờn mép, bụng căng như trống, ấm nóng toàn thân, ợ một cái vẫn thấy béo ngậy. Món thịt chó quốc hồn, ngon tuyệt, không thể chen chân vào những bữa đại tiệc, nhưng nó bổ âm bổ dương, những người đàn ông đi buôn bán xa nhà, kiêng ăn là tốt nhất, ăn nhiều sẽ sinh chuyện... liền tay. Người kể, người nghe đều như nhìn thấy những món ăn ngon bầy dọn ra trước mặt mình, mũi cũng ngửi thấy mùi thơm, nước miếng tứa ra đầy miệng. Ngày tháng còn dài, cơ hội còn nhiều... nhưng chuyện miệng nhai, bụng hưởng, thì xin gửi gắm ở ngày mai. Một thị trấn miền núi đã được giải phóng đến hơn mười năm, nên có được đôi người biết chữ, được theo đòi đèn sách, học được dăm ba chữ, nên đã đặt ra cái từ văn hoa: bữa ăn tinh thần. Thời gian sống của từ này không lâu, ở nơi bản, trại sống được nửa năm, ở nơi thôn, trấn, sống được cả năm. Lịch sử ngàn năm, trời đất dọc ngang vạn dặm, đại địa Thần Châu thiếu chăng những thời mất mùa đói kém? Thời ấy người cơ nhỡ lang thang đầu đường, xương khô phơi đầy bãi hoang. Trong dòng sông lịch sử mênh mang, những dòng chảy kiểu “bữa ăn tinh thần” kể ra sao xiết, tất cả có là cái quái gì đâu? Điều quan trọng là phải phân biệt cho được Diên An với Tây An, chín ngón tay với một ngón tay. Huống hồ nước Trung Quốc mới, mới thành lập được mươi, mười hai năm. Tay trắng dựng nhà, tất cả đều là mày mò tìm kiếm. Tiến vào một xã hội hiện đại, nhà nước và muôn dân đều phải trả “học phí”. Tội thế nào, công ra sao, thôi, hãy để cho người đời sau phán xét.

Một đêm vào năm 1963, trong quán trọ nhà ông Hồ Ký, cô Phù Dung Hồ Ngọc Âm và chồng Lê Quế Quế, cũng có một “bữa ăn tinh thần” theo kiểu khác. Họ cưới nhau đã sáu, bảy năm vợ chồng ân ái, mà vẫn chẳng có tin mừng. Lê Quế Quế hơn Hồ Ngọc Âm bốn tuổi, tuy gọi là làm nghề đồ tể, dao sạch thọc vào, dao máu rút ra, kiếm sống, nhưng anh là người nhút nhát, sợ lôi thôi rách việc. Đôi khi đi ngoài phố, gặp phải con trâu mắt đỏ, sừng cong, hoặc khi gặp một con chó lông xù là anh đã run bắn hẳn lên, đứng nép vào bên hè phố. Có người chế giễu anh:

- Này anh Quế, sao không sợ lợn?

- Lợn? Lợn nó ngu, đã không biết cắn người, lại không có sừng dài, chỉ biết có eng éc, eng éc!

Ngươi ta bảo anh là đồ nhát gan, anh cũng mặc. Chỉ khi cả người tốt lẫn người xấu bụng, bảo anh đần, không biết đúc lấy một đứa con, để cho người vợ xinh đẹp như thế, đảm đang như thế, thành cái lọ hoa rỗng, là làm anh đau lòng. Cho nên anh đã giấu giếm mọi người (kể cả vợ anh) len lén ăn mấy bộ cật chó, gân lợn rừng. Anh Quế có một thân hình cường tráng, nhiều đêm mất ngủ, sợ mình thở dài, làm phiền lòng Ngọc Âm.

- Ngọc Âm ạ, chúng mình phải đẻ lấy một đứa con, dù là con gái cũng được.

- Vâng! Em đã hai sáu tuổi đầu rồi, em cũng sốt ruột lắm chứ anh!

- Nếu em sinh được một thằng con trai mọi việc trong nhà anh sẽ làm tất, rồi tã lót, bẩn thỉu, anh sẽ giặt tất, buổi tối anh sẽ dỗ con đi ngủ.

Ngọc Âm cười rúc rích:

- Thế còn sữa? Anh có cho con bú được không?

- Thì em là mẹ cơ mà! Ngực anh đâu có nổi lên được hai đống thịt lù lù...

Bạn xem, đôi lúc Quế Quế cũng bố láo, hóm hỉnh ra phết!

- Anh bậy, bậy bạ... quá đáng...

- Anh ấy à, tối tối anh sẽ ôm cục cưng vào ngực... ạ ời... cái ngủ mày ngủ cho nhanh, ạ ời... cái ngủ mày ngủ cho nhanh. Còn ban ngày ấy à, anh sẽ ôm cục cưng, hôn như mưa như gió vào khuôn mặt bé tý xíu của nó. Anh sẽ đặt tên sữa cho nó là “tằng cu Êu” (Yêu).

- Gớm! Anh cứ nhắc đi nhắc lại mãi...

- Sao? Không đúng thế à?

- Lúc nào cũng chỉ nghĩ đến con! Hu hu hu, anh quá đáng! Lúc nào cũng đem chuyện con cái ra để dằn vặt em.

Ngọc Âm vừa khóc vừa nói vậy.

Quế Quế là đàn ông, anh đâu có thấu hiểu được rằng, một người vợ trong nhà khi không sinh con đẻ cái được, bao giờ họ cũng cho đó là tội lỗi của họ. Giống như con gà mái, chỉ biết cục tác mà không biết đẻ trứng, không làm tròn chức phận của mình.

Trong lòng Quế Quế tràn đầy một niềm hối hận, vì đã làm cho vợ mình phải phát khóc lên, thật đáng trách. Anh an ủi vợ, dỗ dành vợ như dỗ dành trẻ con:

- Thôi nào, thôi nào Ngọc Âm. Thôi thôi thôi, anh nào có trách móc gì em đâu mà em khóc? Khóc nhiều, mắt sưng lên đấy. Này em xem, khăn phủ gối ướt hết rồi đây này...

Anh nói tiếp:

- Dù cả đời, em chẳng đẻ đái gì, anh cũng chẳng trách em dâu. Vợ chồng mình có hai đôi tay, nhà chỉ có hai miệng ăn, mình lao động ở một đội sản xuất, về nhà lại bán thêm tý canh bánh, đời sống của mình so với bất cứ gia đình nào trong thị trấn cũng chẳng chịu kém. Cho đến già, anh vẫn chăm sóc em, em cũng chăm sóc anh. Em có tin không, không tin, anh xin thề ngay với em...

Nghe người chồng trung hậu đòi thề bồi, Ngọc Âm sợ xúi quẩy, vội vàng nín bặt, ngồi bật dậy lấy tay bịt miệng chồng, và nhẹ giọng trách chồng:

- Anh muốn chết à? Em đánh cho bây giờ đây này! Bao nhiêu chuyện hay chẳng nói sao anh lại cứ đem chuyện xúi quẩy ra mà nói? Không sinh được đứa con cho anh, đấy là lỗi của em đối với anh... dù rằng anh chẳng trách móc gì em, nhưng ở ngoài chợ, khi bán canh bánh tráng, cũng có khối người dè bỉu sau lưng em đấy.

Kể từ một ngày hè đổ lửa, do sóng xô gió đẩy, đã làm tan vỡ mối tình đầu với Lê Mãn Canh, ngay mùa đông năm ấy, Hồ Ngọc Âm đã làm lễ cưới với Lê Quế Quế. Và cô trao trọn vẹn cho chồng cả tấm lòng si, cả tấm tình si. Cô cho rằng mình cao số, bạc phận, sợ tiếng sát phu, nên cô đã coi Quế Quế còn trọng hơn cả bản thân mình.

Mỗi buổi tối trước ngày phiên chợ, phải xay bột, rồi xuống sông Phù Dung gánh nước đổ vào chảo đun sôi tráng bánh, rồi để bánh vào trong một chiếc chum to, chuẩn bị sáng hôm sau bán hàng sớm, cả hai vợ chồng đều đi ngủ rất muộn, vì riêng việc xay bột cũng phải mất bốn, năm tiếng đồng hồ, mỗi người đứng một bên, mỗi người giơ một tay ra cầm vào tay nắm, rồi cùng quay cối, xay bột. Riêng Hồ Ngọc Âm còn phải đều đặn, chính xác, đổ từng môi, từng môi nước vào gạo trong lỗ cối, đã được ngâm bằng nước vôi trong. Hai vợ chồng mắt nhìn mắt, mặt đối mặt, và thường không hẹn trước mà cùng đem những chuyện riêng trong lòng ra tâm sự với nhau để giết thì giờ. Những giờ phút ấy, Ngọc Âm không bao giờ khóc, mà còn mang một chút cứng cỏi nữa kia:

- Hừ! Theo em ấy mà, không to bụng, không đẻ con, cũng chẳng phải chỉ trách người đàn bà...

- Có giời mới hiểu nổi, cả hai vợ chồng mình, đều khỏe mạnh, lại chẳng có bệnh tật gì.

Ít nhiều Quế Quế cũng có lòng tự ái của người đàn ông không chịu nhận trách nhiệm về mình.

Mặt Ngọc Âm hơi đỏ lên, nhìn thẳng vào mặt chồng, nói:

- Nghe các cô giáo ở trường học nói: Bây giờ bệnh viện người ta kiểm tra được tất, cả vợ lẫn chồng đều có thể đi xét nghiệm được cả.

- Kiểm tra cái quỷ gì? Lột nhau ra, chẳng để một sợi vải trên người! Em thích kiểm tra thì em đi kiểm tra. Anh chẳng thích làm cái trò quỷ sứ ấy đâu!

Mặt Quế Quế đỏ lựng lên, còn đỏ hơn cả mặt vợ, giống như những quả hồng chín người ta đem bán ở chợ.

Ngọc Âm vội nói chữa:

- Ấy là em vui miệng nói thế, chứ đâu có nói bắt buộc phải đi mà chưa chi anh đã cáu.

Cả hai vợ chồng họ đều cho rằng sinh con đẻ cái là ở nơi cha mẹ, còn nuôi dạy con cái là ở nơi bản năng, nếu cả đời không sinh đẻ, cũng chẳng thể đến đó được, dù chỉ một lần. Đôi lúc lòng dạ cô cũng thấy có chút hoang mang, có chút liều lĩnh, mắt đăm đắm nhìn chồng, định nói một câu, nhưng không dám nói ra: “Anh cần đứa con nối dõi, hay là cần giữ gìn tiếng tăm, danh tiết? Hay là như cái kiểu nói đùa của thằng cha Vương Thu Xá chủ ngôi nhà sàn ấy, cũng có thể là một cách, kiếm một người... thử xem... Trời ơi! Đồ mất mả, đồ mặt dầy, nghĩ ngợi cái gì mà lung tung, bậy bạ thế?”.

Quế Quế lúc này cũng mơ hồ cảm thấy vợ mình đang nghĩ quàng nghĩ xiên, nên anh đăm đăm nhìn vợ bằng cặp mắt lạnh lùng:

“Em dám! Em dám? Anh sẽ đánh què cẳng em cho mà xem”.

Tất nhiên những câu nói ấy cũng chỉ là họ nghĩ thầm trong bụng và nhìn vào mắt nhau mà đoán ra. Những người dân tầm thường ở miền núi, họ chẳng giàu có gì cho lắm, nên cái của cải tinh thần có pha ít nhiều màu sắc phong kiến, là danh tiếng và trinh tiết bao giờ cũng được xem trọng hơn cả tính mạng của mình.

Năm tháng trôi qua, Hồ Ngọc Âm, cô gái trẻ, chỉ được học qua những lớp xóa mù chữ hồi đầu giải phóng, đối với việc không sinh đẻ của mình cô cho rằng có hai cái căn do sâu sắc: thứ nhất là cái số của mình và chồng không hợp; vào cái năm cô mới 13 tuổi, có một ông thầy bói mù, lưng đeo đàn, tay chống cây gậy gỗ hoàng dương, đã xem cho cô một quẻ bói, bảo rằng cô cao số, không con, và sát phu, cần phải kiếm một người chồng tuổi rồng hoặc tuổi hổ, làm nghề sát sinh mới đứng số được, gia đình mới hòa thuận được, và mới có được người nối dõi đời sau. Vì cái “quẻ bói” ấy mà cha mẹ cô, từ năm cô 15 tuổi đã chú ý tới việc kén rể, kén suốt bốn năm trời, mà chẳng tìm đâu cho đầy đủ cái điều kiện “làm nghề sát sinh, tuổi rồng hoặc tuổi hổ”. Ngoài ra cũng có “chàng rể” đạt yêu cầu đấy, nhưng lại người đàn ông có địa vị quá thấp trong con mắt dân thôn dân trấn, hơn nữa, cũng còn phải được người ta gật đầu cho mới xong. Cuối cùng cha mẹ cô đành phải nới rộng kích thước ra, trừ bỏ một phần mê tín, nên đã tìm được Lê Quế Quế. Làm nghề sát sinh, thì đúng rồi, anh là con của một người chuyên giết mổ lợn. Mặt mũi cũng khôi ngô: khỏe mạnh, chỉ có con giáp là không hợp, tuổi chuột, đúng là một anh chàng nhút nhát, thấy đàn bà con gái là chưa chi mặt đã đỏ lựng lên. Tính nết thực thà, hiền hậu. Chỉ cần vẽ một vòng tròn là đã có thể giam được anh vào đấy. Như chọn dưa trong giỏ, chọn đi chọn lại mãi cuối cùng cũng chỉ có mỗi một mình Quế Quế xem ra là đường được... Còn có một căn do nữa. Ngọc Âm cho rằng trong đám cưới của mình, tuy thật tưng bừng, nhộn nhịp đấy, nhưng vẫn còn có điều không hay cho lắm. Ôi, nói ra thật dài dòng, cả trăm hộ gia đình trong cái thị trấn Phù Dung này, có gia đình nào cưới con cưới cháu được vinh dự và rôm rả cho đến thế. Cho đến tận hôm nay, tất cả đám đàn bà, con gái, trong phố Đá Xanh này vẫn tấm tắc khen ngợi, với vẻ đầy hâm mộ cái ngày tưng bừng, náo nhiệt ấy.

Đấy là năm 1956, đoàn ca múa của huyện toàn những diễn viên đẹp như tiên, đến thâm nhập đời sống và sưu tầm văn học dân gian ở vùng thung lũng núi Ngũ Lĩnh này, lãnh đạo đoàn, đồng thời là biên đạo múa Tần Thư Điền, mà bây giờ gọi là “Tần Rồ”, người nào người nấy đều đẹp như tiên nữ từ trong tranh bước ra, lại đều hát hay múa giỏi, khiến cho dân trong thị trấn được xem ca hát đến “mệt nghỉ” và say mê như điếu đổ. Từ thời ông Bàn Cổ đến giờ chưa khi nào có được cái đêm diễm phúc ấy. Nguyên là ở cái thị trấn Phù Dung miền núi này, trong phụ nữ, trước giải phóng, có một tục lệ ca múa rất thịnh hành, đó là “sàn hát mừng”. Bất kể giàu nghèo, vào những đêm trước khi cô gái về nhà chồng, tất cả các cô gái, cho đến các bà nạ dòng, đều đến đây ngồi hát bầu bạn với cô dâu mới, họ thay nhau múa hát, có khi kéo dài tới hai ba ngày những bài như “Giã bạn”, “Nhận dâu”, “Khuyên mẹ”, “Trách bà mối”, “Trách chàng”, “Phu kiệu hoa” vân vân tất cả đến hơn trăm bài hát. Có bài tả tình cảm của bà mẹ lưu luyến con gái, có bài lo lắng, có bài ca ngợi cuộc sống mới của đôi vợ chồng, cũng có những bài chê trách lễ giáo phong kiến, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, như bài “Trách chàng”, trong đó có câu:

Vợ mười tám, chồng lên ba,

Đêm đêm chú rể đái ra ướt giường.

Đứng lên, cao tựa chổi cùn,

Nằm ngang, bằng chiếc gối mềm, chết cha!

Đêm đêm đòi bú, ề à...

Em là vợ, chứ đâu là mẹ anh!

Như trong bài “Trách bà mối” có câu:

Ơi bà mối! Hỡi bà mai,

Răng mài kèn kẹt, cứ mài mãi ru?

Bảo nhà trai: giàu có, kếch xù,

Lại rằng: cô gái, đẹp như trăng rằm.

Chết bảo sống, thối bảo thơm,

Đôi bên, bố mẹ sồn sồn nghe ngay

Bà mối này, bà mai này,

Bao nhiêu gà gạo, vào tay bà rồi?

Ăn ngày mốt, chết ngày mai,

Ngày ba đem xác chôn ngoài đường quan.

Trâu một chân, ngựa một chân,

Ngày ngày giày đạp cho trần xác ra,

Xác bà cho chó nó tha...

Hơn trăm khúc hát ở “sàn hát mừng”, đã mang được tính chất phác, phong vị của sơn ca miền núi, lại mang được tính trong sáng uyển chuyển của ca dao, những bài vui, như hoa nở nước trôi, những bài buồn, như than như oán, những chỗ hứng khởi làm sôi sục lòng người. Nó tràn trề sự nồng hậu, đằm thắm màu vẻ ruộng đồng.

Tần Thư Điền là người vùng này, phụ thân anh đã từng làm thầy đồ dạy tư. Anh đưa những nữ diễn viên của anh về đây để sưu tầm chỉnh lý những bài hát ở “sàn hát mừng”, khẳng định chủ đề chống phong kiến. Anh cùng với ông thư ký ủy ban đến tìm cha mẹ Ngọc Âm chuyện trò, thuyết phục, rồi quyết định biến lễ cưới của Hồ Ngọc Âm, thành một hội diễn tại chỗ, lấy tên là “Sàn hát mừng”. Bà mẹ Ngọc Âm tuy tuổi tác đã cao, nhưng lại là tay “thiện nghệ” ngồi trên sàn hát. Còn Ngọc Âm thì sao, ngay từ nhỏ cô cũng đã theo mẹ tới sàn hát, bầu bạn với những cô dâu mới, cô đã thuộc lòng hơn một trăm bài “hát mừng”, thêm vào đó cô có trí nhớ rất tốt, người lại đẹp, giọng hát lại tròn vành rõ tiếng, cất tiếng hát lên là đã hấp dẫn, lôi cuốn. Cho nên đối với các cô gái, cũng như với các bà nạ dòng ở thị trấn Phù Dung, cô đã sớm được chấp nhận là một tay “thiện nghệ” nối dòng. Ngay từ Tần Thư Điền, đến các cô vũ nữ diễn viên đều lấy làm tiếc rằng, một cô gái như thế, mới 18, 19 tuổi đầu mà đã vội vã đi lấy chồng.

Tối hôm đó, nhà trọ Hồ Ký chăng đèn kết hoa, xanh đỏ tưng bừng, nghệ thuật và đời sống hòa làm một, hiện thực và hư cấu hòa làm một, những cô diễn viên hóa trang, Hồ Ngọc Âm cũng đánh phấn tô son, tất cả các cô, các chị, các bà ở thị trấn đều quây lại nơi này làm dàn hát đế:

Áo xanh, quần lụa, khăn hồng,

Nuôi em, mẹ những thầm mong lợn gà.

Mất con, khi lợn đến nhà,

Bước chân lên chiếc kiệu hoa, em buồn.

Hòn đá ném rã chim đàn,

Cướp người, giằng kéo, rách tan khăn hồng;

Mẹ cha chia bưởi, rẽ bòng,

Tình ta, em giấu trong lòng, riêng ta!

Gặp nhau vui cất lời ca,

Chị em ta sẽ chia xa mai này.

Hát bài tiễn chị hôm nay,

Ngày mai em hát bài này cho ai?

Hôm nay nghe hát, cùng ngồi,

Ngày mai riêng một khoảng trời trống không.

Con gái mà đi lấy chồng,

Cầm bằng nước lã ra sông, hỡi nàng.

Phận em, như giấy mỏng tang...

Có ca có múa, có khóc có cười. Hồ Ngọc Âm cũng hát, cũng khóc, cũng buồn. Buồn chăng? Vui chăng? Cứ tựa như nằm mơ, xanh xanh đỏ đỏ. ẩn ẩn hiện hiện, mờ mờ ảo ảo. Cả đoàn diễn viên như tiên nữ múa lượn quanh cô, khi tụ khi tán, vừa hát vừa múa. Có lẽ do Tần Thư Điền quá nhấn mạnh vào chủ đề chống phong kiến, đã tước bỏ mất cái phần châm biếm, khôi hài, khiến cho cả đêm diễn bao phủ bằng cả một không khí mang sắc màu buồn thương, ai oán, khiến chú rể hơi cụt hứng, và song thân cô cũng có phần lo lắng, sợ sái cho con rể và con gái. Cuối cùng có lẽ Tần Thư Điền cũng nhận ra được điều này, nên khi sắp kết thúc hội diễn, anh đã đứng ra bắt nhịp cho hai họ, với toàn thể diễn viên và các cô các chị các bà, cùng hát bài “Đông Phương hồng”, rồi bài “Những ngày ở khu giải phóng là những ngày tươi sáng”, tuy cũng hơi có phần khiên cưỡng, nhưng cũng có thể coi là chính khí đè tà khí, ánh sáng chiến thắng được đen tối.

Ít lâu sau, Tần Thư Điền đưa đoàn diễn viên của mình về huyện, đem những thành quả sưu tầm được ở vùng núi Ngũ Lĩnh cải biên thành một màn ca múa cỡ lớn về phong tục lấy tên là “Sàn hát nữ”, lần lượt đi biểu diễn hết khắp các phủ huyện, rồi đem cả lên tỉnh lên thành biểu diễn, rất thành công. Tần Thư Điền còn viết bài đăng trên báo của tỉnh nói về việc bới cũ tìm mới, chống phong kiến. Hai mươi mấy tuổi đã nổi tiếng, thành danh và được nhận giải thưởng, có thể coi như là thiếu niên đắc chí. Nhưng cảnh đẹp không dài. Năm sau, khi tiến hành cuộc đấu tranh chống phái hữu. “Sàn hát nữ” bị coi như một mũi tên độc lớn, bắn vào xã hội mới, oán trách lễ giáo phong kiến chỉ là giả, còn căm thù xã hội chủ nghĩa mới là thật, mượn sân khấu xã hội chủ nghĩa để mưu đồ việc xấu, dụng tâm ác độc, điên cuồng chông đối, phản động ngập tràn. Ngay sau đó Tần Thư Điền bị chụp lên đầu chiếc mũ phần tử phái hữu, buộc thôi việc, tống giải về nguyên quán, giao cho quần chúng địa phương quản chế lao động. Từ đấy trở đi, phiên nào cũng thấy Tần Thư Điền ở chợ, có người bảo anh bện giầy rơm để bán, có người bảo anh đi nhặt các đầu thừa thuốc lá để hút. Tất cả mọi người đều gọi anh là “Tần Rồ”.

Ôi chao, tai vạ tuy chẳng có liên quan gì tới Hồ Ngọc Âm và Lê Quế Quế chồng cô, nhưng cả hai vợ chồng lúc nào cũng cứ nghĩ cho rằng, ít nhiều mình cũng có dính dáng vào cái việc đen đủi ấy. Trong xã hội mới, làm gì còn có cái gọi là phong kiến? Còn có cái gì gọi là chống phong kiến? Xã hội mới còn có cái gì mà chẳng chống được? Giải phóng sáu, bảy năm trời rồi, mà còn làm rối loạn lung tung giữa xã hội mới với “phong kiến”. Bạn xem, chỉ vì chống phong kiến mà Tần Thư Điền phạm pháp, tụt xuống làm phần tử loại 5. Hồ Ngọc Âm cũng bị xúi lây, đen đủi theo, lấy chồng bảy, tám năm vẫn chẳng mang bầu, vẫn chẳng có con.