← Quay lại trang sách

“TẦN RỒ”

TRÊN TẤM CÁNH CỬA GỖ CỦA NHÀ XÍ CÔNG CỘNG, đằng sau cửa hàng ăn uống quốc doanh ở thị trấn Phù Dung xuất hiện một khẩu hiệu phản động. Đồn công an huyện phái tới hai nhân viên để phá án và ở lại trên ngôi nhà sàn của Vương Thu Xá. Vì Vương Thu Xá xuất thân nghèo khổ, đáng tin cậy về chính trị, lại vốn là chân chạy, nên đương nhiên nhân viên công an coi anh ta là chỗ dựa vững chắc trong khi điều tra vụ án. Còn cái “khẩu hiệu phản động” ấy viết những gì? Duy chỉ có hai nhân viên công an, và cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh là Lý Quốc Hương biết được mà thôi. Không thể tiết lộ ra được, sợ nó thành một sự “phản tuyên truyền”. Vương Thu Xá chủ nhân của ngôi nhà sàn, tuy cũng biết được tý râu tý ria, nhưng vì nó có liên quan tới việc cơ mật của lãnh đạo cấp trên, rồi lại phải giữ kỷ luật của công an, nên miệng kín như bình. Còn những người dân thường ở thị trấn, chỉ biết hoang mang lo sợ, vì nếu mình nghi cho người ta, người ta cũng nghi cho mình.

Bà Lý Quốc Hương và ông Vương Thu Xá báo cáo với công an rằng, đừng có coi thị trấn Phù Dung là một phần đất nhỏ, ít người, mà nó là nơi có chợ, có đường thủy, đường bộ, người qua lại là vàng thau lẫn lộn, rồng, rắn một lồng. Chỉ riêng trong đại đội sản xuất ở thị trấn, những tên địa chủ phú nông, phản động, phần tử xấu, phần tử hữu, đã được đội mũ, đã được đánh số, cũng đã có tới hai mươi mấy tên rồi, rồi những đối tượng chuyên chính chưa bị đội mũ, cùng con cái người thân của chúng nữa, và những kẻ mà thành phần xuất thân không trong sạch, quan hệ xã hội phức tạp, đâu còn là con số ấy nữa. Những người sống bám vào chợ, trong xã hội cũ có ai thoát được chuyện rượu chè, cờ bạc, trai gái, có ai là không sống ở bến tàu bến xe? Liệu có mấy người thực thà, trong sạch? Lại còn có những cán bộ, nhân viên nhà nước, đảng viên đoàn viên, nhưng đã qua nhiều năm tháng sống lẫn lộn với quần chúng phức tạp, như dây leo quấn quýt, như thân bằng cố hữu, nhận dì cháu, kết anh em, rồi cha nuôi, mẹ nuôi, sớm đã bị biến chất, bị mò mịt mơ hồ trên trận tuyến giai cấp.

Hai anh công an đã bình lặng đánh giá lại trận tuyến giai cấp, tình hình địch ta ở thị trấn nên chưa quăng một mẻ lưới lớn. Họ vẫn làm theo cách thức đánh án xưa nay, đã cộng tác với chị cửa hàng trưởng, và Vương Thu Xá, đầu tiên là triệu tập một cuộc họp “răn đe những phần tử loại 5”.

Những phần tử loại 5 ở thị trấn, xưa nay vẫn quy về cho trưởng ban bảo vệ trị an của đại đội sản xuất của thị trấn cai quản cải tạo. Mùa hè năm 1962, tình hình eo biển Đài Loan trở nên căng thẳng, cấp trên quy định lại, chức vụ trưởng ban bảo vệ phải do bí thư chi bộ đại đội sản xuất kiêm nhiệm. Bí thư chi bộ Lê Mãn Canh vẫn đúng kỳ triệu tập những phần tử loại 5 lại để huấn thị, răn đe. Anh còn chỉ định trong số phần tử loại 5 đó ra một tên đầu mục có nhiệm vụ đi gọi người, xếp hàng, và báo số, lấy độc trị độc. Tên đầu mục của các phần tử loại 5 này là “Tần Rồ”.

Tần Rồ năm ấy hơn ba chục tuổi, nhưng dù có lửa đốt, rét ngâm, anh vẫn không can tâm khuất phục, anh là người thuộc phái lạc quan trong đám phần tử xấu. Thành phần xuất thân của anh cũng chẳng thuộc loại kém cỏi gì, anh có họ xa, ngoắt ngoéo với bí thư chi bộ Lê Mãn Canh. Ngay từ khi bị đuổi từ đoàn ca múa về, anh liền xin với bí thư chi bộ đại đội sản xuất, đổi chiếc mũ phần tử phái hữu trên đầu anh, thành cái mũ của phần tử xấu. Anh thành khẩn kiểm điểm rằng, anh chưa từng phản Đảng, phản nhân dân, nhưng đã có hai lần nói chuyện yêu đương với hai cô nữ diễn viên, và đã từng hủ hóa hai lần, trong cuộc đấu tranh chống phái hữu, hai cái tội thực sự chưa hề bị vạch ra, cho nên cái mũ phần tử xấu là thích hợp nhất đối với anh. Bí thư chi bộ Lê Mãn Canh bị anh năn nỉ mấy lần liền, trong lòng cũng thấy phiền phiền: phần tử xấu, với phần tử phái hữu, cũng bên tám lạng, bên nửa cân, cùng là một lũ rắn trong lồng, còn khác gì nhau nữa cơ chứ, nên trong một cuộc họp anh đã tuyên bố Tần Rồ là phần tử xấu. Sau một thời gian, bí thư chi bộ lại thấy Tần Rồ có trình độ văn hóa cao, viết chữ đẹp, có năng lực hoạt động tổ chức, nên chỉ định anh làm đầu mục của phần tử loại 5.

Sau khi Tần Rồ được làm tên tiểu đầu mục các phần tử loại 5, công tác “giám, quản, cải” của bí thư chi bộ Lê Mãn Canh gặp rất nhiều tiện lợi. Mỗi lần đại đội cần phải triệu tập những phần tử loại 5 đến giáo dục, huấn thị, chỉ cần buông một câu:

- Tần Rồ!

Ngay lập tức, Tần Rồ đã đáp lại hết sức mạch lạc, rõ ràng:

- Có!

Và làm đúng như một thầy giáo dạy thể dục trong trường học, hai tay kẹp lên sườn, chạy đều bước tới ngay. Khi tới trước mặt bí thư chi bộ, bèn dập gót, trong tư thế “đứng nghiêm”, bàn tay phải đưa lên ngang mày, chào:

- Báo cáo thượng cấp, phần tử xấu Tần Thư Điền có mặt!

Lâu dần thành quen.

- Tần Rồ, dỏng tai lên mà nghe này! Cơm tối xong, toàn thể phần tử loại 5, phải tập hợp đủ mặt ở cửa đại đội bộ.

- Vâng! Mệnh lệnh của thượng cấp nhất định được thi hành đầy đủ.

Anh lập tức đằng sau quay, rồi lại làm giống như thầy giáo dạy thể dục, chạy đều bước. Tối, anh tập hợp đúng giờ tất cả các phần tử loại 5 trên đám đất phẳng trước cửa đại đội bộ, xếp hàng ngay ngắn, điểm danh đâu đấy, báo cáo số lượng, tất cả đều cúi đầu nghiêm chỉnh, giống như một hàng cần câu, rồi mới mời lãnh đạo đại đội, kiểm tra, đi duyệt.

Trong các phần tử loại 5, Tần Thư Điền còn có một cách “thực hành cương lĩnh”. Anh nói riêng với từng đồng loại của mình:

- Tuy bảo rằng tất cả chúng ta đều vào một cuốn sổ đen, làm dân da đen hoàng chủng, nhưng cũng có cái “đen” đậm, “đen” nhạt. Ví như anh là địa chủ, trước giải phóng, anh uống máu uống mồ hôi, sống bằng bóc lột, hại giời, hại người, là tội ác hàng đầu. Ví như anh là phú nông, ngày xưa anh cũng có lao động, cũng bóc lột bằng cho vay nặng lãi, muốn leo lên bậc thang giai cấp địa chủ, mua ruộng, tậu đất muốn làm giàu nhanh, anh là loại tội ác thứ hai. Lại ví như anh là phần tử phản cách mạng, thì lại khác. Anh chỉ vì tài sản, vì bóc lột mà bị đội mũ, nhưng vì anh phản động trong tư tưởng, trong hành vi, là kẻ địch của nhân dân. Cho nên trong phần tử loại 5, anh là loại nguy hiểm nhất, nếu anh sơ hở manh động, trước hết hãy sờ lên trên cổ xem ở đó mọc được mấy cái đầu.

Có những địa chủ, phú nông, phần tử phản động, không chịu, vặn lại:

- Thế còn anh? Anh thuộc vào cái thứ đồ gì?

- Tôi á? À, tất nhiên tôi là phần tử xấu rồi. Cái phần tử xấu ấy mà, nó cũng rắc rối lắm đấy, đủ các chủng loại. Có người là trộm cắp, lừa đảo, có người là cưỡng hiếp phụ nữ, đàn bà, có người là tham ô hủ hóa, có người là lưu manh trấn lột, có người là tụ họp bạc bài. Nhưng nói chung, sự xuất thân của những phần tử xấu, cũng chẳng phải là xấu hẳn. Tội trạng của phần tử xấu là loại tội nhẹ nhất trong các phần tử loại 5. Ha ha, sau này lúc bọn mình rơi vào các địa ngục, nó có thượng, hạ, trung, tất cả mười tám tầng địa ngục cơ.

Anh nói văn vẻ, lưu loát, hình như có hơi nhấn mạnh vào cái tính ưu việt của “phần tử xấu” giữa những người đồng hành. Nhưng một chữ anh cũng không nhắc tới “phần tử phái hữu”, và cũng không bao giờ đề cập tới cái “tội phản Đảng, phản xã hội chủ nghĩa của phần tử phái hữu”, và trăm năm sau, khi rời xuống địa ngục, phần tử này xếp vào tầng thứ bao nhiêu.

Tần Rồ đã từng là giáo viên âm nhạc thể dục trong trường huyện, vì thế anh có thể ngồi lần lượt trên bốn cái ghế: đàn, hát, gõ, thổi, và cầm, kỳ, thi, họa, anh cũng đều biết cả. Múa rồng, múa lân anh thuộc vào hạng kha khá. Lúc bình thường, miệng anh cũng luôn luôn ngân nga mấy câu, thuộc vào hàng chiêng trống: “Khoan hò, hò khoan, này dô khoan”. Những ngày đói khổ vào mấy năm trước, sợi dây đấu tranh giai cấp ở nông thôn còn chưa được vặn căng, tất cả đám dân miền núi trong thị trấn Phù Dung này, những nhà có việc đón dâu, rước rể, còn mời anh tham gia vào đội nhạc phường bát âm, anh được ngồi vào mâm bình đẳng với các xã viên bần nông, trung nông lớp dưới vui vẻ hát hò đàn địch, hát những khúc hát kịch hoa đăng. Cái “nghệ tinh, thân vinh” ấy, khiến cho giá trị của anh trong con mắt mọi người có khác với những phần tử loại 5 khác. Hơn thế, khi đại đội sản xuất của thị trấn phải làm các công tác trọng tâm đột xuất từ cấp trên ban xuống, cần phải viết khẩu hiệu lên tường, lên vách núi, hay ở dọc đường, ví dụ như: “Đại sản xuất thép, đại sản xuất lương thực”, “Chống hữu khuynh, chống bảo thủ”, “Chủ nghĩa cộng sản là thiên đàng, công xã nhân dân là cầu dẫn”, “Ba lá cờ hồng muôn năm”, vân vân, tất cả đều nằm trong nét bút đới công chuộc tội của anh.

Mùa xuân năm ngoái, không biết rằng anh định biểu thị quyết tâm cải tạo, thay da đổi thịt của mình, hay là do cái gì đó không rõ, anh đã phát huy tài lẻ về âm nhạc của mình, anh đã tự làm lời, rồi phổ nhạc và biểu diễn một bài hát “Khúc hát của phần tử loại 5”:

Phản Đảng, phản quốc, phản nhân dân

Phần tử loại 5 đã quyết tâm

Cùng dân quân công xã chắc tay súng,

Kẻ nào làm loạn bắn tới cùng

Kiểm thảo... a!

Thành khẩn... a!

Trung thực với luật pháp mới là quang vinh...

Anh đã làm cho “Khúc hát của phần tử loại 5” này mang tính hành khúc và đầy phong vị dân ca, và rất lấy làm hài lòng, đắc ý, và anh đòi được dạy cho anh em khi đại đội triệu tập các phần tử loại 5 đến để dạy dỗ. Nhưng thái độ của các phần tử loại 5 đều rất ngoan cố, nhất định không chịu mở miệng học hát, hơn nữa bí thư đại đội Lê Mãn Canh cười mà xổ toẹt bài hát đi, thế mới yên chuyện. Nhưng về sau, đám trẻ con trong thị trấn lại chịu học, và đem hát ông ổng khắp nơi, cũng có thể coi như có ít nhiều ảnh hưởng trong xã hội.

Đối với Tần Rồ, các cán bộ và các xã viên trong thị trấn mỗi người có một cách nhận định về anh rất khác nhau. Có người xem anh như một “nhà bác học” của thị trấn, vì anh đọc nhiều sách, từng trải nhiều, cổ kim đông tây, quá khứ tương lai, thiên văn địa lý, ví như chuyện gà đẻ ra trứng hay trứng đẻ ra gà, Đảng cộng sản Mỹ tại sao không vào rừng đánh du kích, công nhân tại sao không khởi nghĩa, trái đất có tuổi hay không, trên mặt trăng có cây đa, thằng Cuội hay không (nguyên văn: Cây quế và cung Quảng Hàn), vân vân, anh kể thao thao bất tuyệt, thậm chí đôi lúc anh còn kèm theo vào đó đôi ba câu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, và duy vật lịch sử, khiến cho những người kém văn hóa ở miền núi như được nghe sách giời, và tôn anh thành người: “Việc trên giời biết một nửa, việc dưới đất biết tất cả”. Có người lại bảo anh thành thật giả vờ, tích cực giả vờ, thực ra chỉ là củ khoai lang hà ruột, mà không hà vỏ. Có người lại bảo anh là ma không ra ma, người chẳng ra người, sống nhục, vui đau, mang tội mang nợ. Cũng có người lại bảo, đừng có tưởng, ban ngày anh ta lúc nào cũng cười ha há như thế, hát hò không dứt, trống phách chẳng rời miệng, chứ thực ra ban đêm anh ta vùi đầu trong mái lều xiêu mà khóc ròng đấy, một con người ngoài ba mươi tuổi vẫn một cây gậy trơn, chưa vợ, lại phải đội thêm một chiếc mũ phần tử xấu, khóc lóc thương tâm lắm. Lại còn có những người dân quân, đêm đứng gác trên bờ sông Phù Dung, đã nhiều lần trông thấy anh đi đi, lại lại trên bờ sông, có khi định nhảy xuống sông tự tử cũng nên? Nhưng lại có vẻ như không phải tự tử mà đại khái là đang suy nghĩ về quá khứ và tương lai của anh.

Những người trong thị trấn, trong đó có “cô Phù Dung” bán canh bánh tráng, có ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực thị trấn nhìn anh bằng con mắt thế nào không biết, nhưng không có người nào ghét bỏ anh. Mỗi ngày phiên chợ, gặp ai anh cũng cười cười, vẫy tay, mọi người cũng cười cười, cũng vẫy tay với anh. Ngoài đầu bờ, mọi người cũng chịu ngồi chung hóng mát nghỉ ngơi với anh, và cuốn một điếu thuốc lá tổ sâu cùng hút với anh.

- Này anh bạn Tần Rồ, hát một bài nghe chơi nào!

- Rồ! Kể một câu chuyện cổ đi nghe, như Lưu Bị, Tôn Quyền, hay Nhạc Phi, Lương Hồng Ngọc gì đó cũng được.

- Cái đoạn Phàn Lê Huê (Hoa) kỳ trước còn chưa kể hết!

Ngay đến các chị phụ nữ trẻ và các cô con gái cũng chẳng ai ghét sợ anh, có người còn nhờ anh giúp việc cho.

- Rồ! Vác cái thang dài dài kia lại đây, trèo lên mái nhà, phơi ít khoai lát này.

- Rồ! Mau lên! Mẹ tôi vừa bị con đỉa trâu nó cắn, máu chảy ròng ròng, ba chân bốn cẳng chạy đến trạm y tế, mời thầy lang đến đây đi.

Còn cái đám trẻ bé tý tẹo, quan điểm giai cấp còn mơ hồ lại gọi anh là “Chú Rồ”, hoặc “Bác Rồ” nữa kìa.

Tần Rồ đi đầu dẫn cả đội gồm hai mươi hai tên phần tử loại 5, người nào người nấy đầu cúi gằm xuống, đến một căn phòng đầy mùi dưa chua ở tầng dưới của cửa hàng ăn uống quốc doanh, kiếm ngói vỡ, gạch vụn ngồi xuống, sau đó nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương, cùng với “rễ phong trào” Vương Thu Xá mới đưa hai người công an bước vào. Tay anh công an cầm một cuốn sổ bìa hoa, gọi tên từng người một, gọi tên phần tử nào, phần tử đó đứng dậy cho anh ngó mặt. Ánh mắt của anh công an sắc như gươm, uy nghiêm, lạnh lẽo, những người xấu, việc xấu chỉ liếc qua là nhìn thấu hết. Khi gọi đến tên một phần tử có lịch sử phản cách mạng, thì lại là một thằng nhóc con mới đẻ sau giải phóng, như vậy, làm sao lại gọi là có lịch sử phản động được? Tần Rồ vội báo cáo thay: Bố nó bị bệnh ho ra máu, đang nằm rên hừ hừ trên giường, nên mới phải cho thằng nhóc con này đi thay thế. Thượng cấp có gì chỉ thị, thằng nhóc này sẽ về truyền đạt lại. Vương Thu Xá quay về phía thằng nhóc có lịch sử phản cách mạng quát:

- Cút mẹ mày sang một bên! Mẹ kiếp! Phần tử loại 5 đã có tầng lớp kế cận rồi đấy! Xem ra cuộc đấu tranh giai cấp còn phải kéo tới mấy đời nữa.

Sau đó nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương cầm một tập giấy trắng phát cho mỗi tên phần tử loại 5 một tờ, bảo mỗi người viết lên đó một khẩu hiệu: “Ba lá cờ hồng đại nhảy vọt, tổng lộ tuyến, công xã nhân dân muôn năm” và phải viết hai lần, một lần bằng tay phải, một lần bằng tay trái. Các phần tử loại 5 hình như cũng đã có được ít nhiều kinh nghiệm, cũng đã đoán được rằng ở một nơi nào đó trong thị trấn đã xuất hiện “khẩu hiệu phản động” nên bắt họ đối chiếu bút tích. Những người to gan, đối với loại chuyện cũ ngàn năm của công an này, họ chẳng coi vào đâu, bởi vì bất kể là anh có làm việc xấu hay không, thì khi phá án, bao giờ cũng bắt đầu từ loại người này trước để khai đao. Loại nhát gan, bắt đầu run lên bần bật, sợ như cha chết, sợ đến vãi linh hồn.

Điều làm cho nữ cửa hàng trưởng và nhân viên công an cụt hứng, thất vọng vì trong số hai mươi hai tên phần tử loại 5 này, có tới mười tên nói rằng mình không có văn hóa, không biết viết chữ, và tên nọ đứng ra bảo lĩnh, chứng minh giúp tên kia. Vương Thu Xá đứng bên, giải thích:

- Tất cả những tên địa chủ, tài chủ có danh vọng một chút, trước khi giải phóng, đều đã trốn sạch ra Hương Cảng, Đài Loan rồi, còn lại, toàn những đồ chó nhà, lợn đất hết!

Chỉ riêng có phần tử xấu Tần Thư Điền, xin thêm một tờ giấy từ tay cửa hàng trưởng, rồi viết cả bằng tay phải lẫn bằng tay trái, viết ra những con chữ vừa to, vừa thô, ngay ngắn đẹp đẽ, cứ như vừa in ở máy in ra, và viết đầy cả hai trang giấy. Thực ra những anh công an đều có thể ra đường, so sánh tự dạng những khẩu hiệu mà anh đã viết trên tường, trên vách đá. Tất cả những phần tử loại 5 có biết chữ, sau khi đã để lại bút tích, thì anh công an, và chị cửa hàng trưởng nói dăm câu ba điều dạy dỗ về tính thực thà, về tuân thủ pháp luật, rồi cho những tên có danh sách trong sổ đen ấy giải tán.

Trong việc này, Tần Rồ là đáng khả nghi nhất. Nhưng khi công an gặp cán bộ đại đội sản xuất để tìm hiểu tình hình, lại được những lời đáp hoàn toàn phủ định:

- Mấy năm nay, đều rất thực thà, yên phận, tích cực lao động, chưa hề có qua một việc xấu nào.

Hơn thế, bút tích cũng khác hẳn.

Nữ cửa hàng trưởng Lý Quốc Hương và chủ nhân ngôi nhà sàn Vương Thu Xá, lại đề cập tới “cô bán canh bánh tráng” Hồ Ngọc Âm có lịch sử xuất thân phức tạp, bố đẻ đã từng tham gia bang Xanh Đỏ, mẹ đã từng làm kỹ nữ, cô ta lôi kéo, hủ hóa cán bộ, hành tung rất khả nghi.

Theo ý kiến của họ, anh công an đặc biệt tới hàng canh bánh tráng ăn hai bát vào ngày phiên chợ. Ngồi hàng tiếng, ngắm bên trái, nhìn bên phải, và bất kể nhìn từ phía nào, anh công an cũng chỉ thấy Hồ Ngọc Âm là một con người tài ba, lúc nào cũng cười tít, đổi với ai cũng nhỏ nhẹ, dịu dàng, mở miệng ra là “ông anh”, là “người anh em”, còn thái độ phục vụ, nếu so với đa số các nhân viên các cửa hàng ăn uống quốc doanh, thì mèng ra cũng hơn đứt một cái đầu. Hồ Ngọc Âm cũng không phải là người có văn hóa, đâu phải là người viết “khẩu hiệu phản động”? Người ta mở một cái quán nhỏ, bán hàng, kiếm lời, chả có lý do gì để chửi bới ba lá cờ hồng. Dưới bóng của ba lá cờ hồng, cô ta được phép bán canh bánh tráng kia mà, lấy đâu ra mối thù khắc cốt, ghi xương?

Không tìm ra được đầu mối nào, chị cửa hàng trưởng lại đề xuất một ý kiến mới với các anh công an: Cần phải thông qua tổ chức Đảng, đoàn các cấp, tiến hành một phong trào chính trị, phát động quần chúng viết báo, bàn về những nhận thức của mình đối với ba lá cờ hồng, sao cho những người biết chữ trong toàn thị trấn, đều phải viết báo, rồi lấy đó so sánh tự dạng. Thật đúng là phải huy động bao nhiêu quân tướng, phải dốc ra bao nhiêu công sức, kết quả là vẫn không sao tìm ra được cái tổ con chuồn chuồn.

Chỉ mấy vết vạch nhằng nhịt lăng nhăng trên tấm cánh cửa gỗ thông nơi nhà xí công cộng của cửa hàng ăn uống quốc doanh mà đã làm cho thần sầu quỷ khóc, thảo mộc đều thành lính, nhân tâm bàng hoàng. Mỗi một người đều có cảm giác rằng chính mình đang bị tố cáo, bị hoài nghi, bị tra xét. Về sau anh công an đành phải mang tấm gỗ thối ấy được coi như vật chứng của vụ án đi. Vụ án chính trị phản cách mạng đỏ bị treo lại nhưng còn chưa kết thúc. Như thế có nghĩa là lớp mây, đen ngòm ngờ vực, vẫn còn vần vũ trên bầu trời của thị trấn Phù Dung. Những hồn ma bóng quỷ vẫn còn lẩn quất, ra vào trong những ngõ sâu, đường hẻm trên phố Đá Xanh.

Vụ án tuy không phá được, nhưng Vương Thu Xá lại được làm cộng tác viên an ninh cho công an, mỗi tháng được đồn công an huyện trả lương cho 12 đồng. Còn uy tín của chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh vô hình trung đã được dựng lên, đồng thời được đề cao lên trong cư dân thị trấn. Đó là một nhân vật lãnh tụ mới ở thị trấn, chống đối lại với nhân vật lãnh tụ cũ là Cốc Yến Sơn, chủ nhiệm cửa hàng lương thực. Kể từ đó chị cửa hàng trưởng rất thích ưỡn ẹo bộ ngực đã bắt đầu lép xuống, và vênh vác bộ mặt vàng vàng đã ẩn hiện những nếp nhăn mờ mờ, đi đi, lại lại, trên phố Đá Xanh, và dừng lại trước mỗi cửa hàng vài ba phút đồng hồ.

- Có khách hả? Đến chỗ ông Vương an ninh mà đăng ký đi. Cần phải ghi rõ thời gian khách đến thị trấn, thời gian khách rời thị trấn, thành phần giai cấp, và có quan hệ gì với gia đình này, và có giấy tờ chứng minh của đại đội sản xuất, của công xã hay không đấy nhé...

- Này cái đôi câu đối này dán lên cửa vào năm nào, tháng nào đấy? Bốn cái chữ “nhân dân công xã” bị mưa đập gió quật tơi tả không còn ra cái thể thống gì nữa, rồi lại, kìa, đóng cái đinh tre dưới ảnh Mao Chủ tịch mà treo cái áo tơi trâu như thế kia là tại sao?!

- Bác ơi, bác có biết cái nhà bán canh bánh tráng kia mỗi phiên chợ kiếm được bao nhiêu lãi không? Nghe nói là chồng chị ta mua đất, mua gạch, mua ngói để chuẩn bị xây nhà đấy.

- Có phải trong cái lều xiêu bên cạnh vách nhà anh là phần tử phái hữu Tần Thư Điền không? Vợ chồng anh phải luôn luôn theo dõi mọi hành động của hắn ta, xem những ai là người đi lại, ra vào; ông Vương nhân viên an ninh sẽ đến đây luôn để bố trí công việc cho anh.

Cứ như thế, như thế, vân vân. Khi chị cửa hàng trưởng nói những lời như thế, thái độ thật dịu dàng, vì trong đó có mang theo một tý nhắc nhở đầy thiện chí.

Nhưng sự thực lại chẳng được như thế. Sự quan tâm ấy, sự nhắc nhở ấy, chỉ để lại trong lòng người dân một không khí buồn phiền, ngán ngẩm, một loại khủng bố tinh thần: dần dà, cứ mỗi khi thấy chị ta xuất hiện ở đầu phố, người nọ đã đưa mắt cho người kia, rồi im như thóc. Thật đúng là một con chim vào núi, trăm con khác phải im hơi, đến chó mèo cũng phải chạy tụt vào trong nhà. Hình như trong túi chị ta có cuốn sổ sinh tử của các sinh linh trong thị trấn. Những cư dân trong thị trấn Phù Dung xưa nay, vốn là những người an phận thủ thường, sống bằng tình nghĩa xóm giềng đã bắt đầu quan sát được, nhận ra được rằng: Kể từ khi chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh nay xuất hiện thì ông Cốc Yến Sơn, một nhân vật lãnh tụ vốn được nhân dân thị trấn công nhận xưa nay, bỗng nhiên như có phai sắc đi ít nhiều. Từ đó mọi chuyện bỗng trở nên rắc rối.