← Quay lại trang sách

“ĐẠI BINH PHƯƠNG BẮC”

CHỦ NHIỆM CỬA HÀNG LƯƠNG THỰC CỐC YẾN SƠN, kể từ ngày mặc áo da dê, đi giầy giải phóng theo đại quân nam hạ đến thị trấn Phù Dung, cắm lại làm công tác địa phương, đã vừa tròn 13 năm. Lúc đầu nói toàn giọng miền Bắc, đến nay đã nhập hương tùy tục, đã chuyển thành một thứ “bạch thoại” mà người địa phương ai nghe cũng hiểu được, khi chuyện trò với mọi người ông không dùng chữ “bà con” nữa mà dùng chữ địa phương là “người anh em”. Còn ăn quen cả bát ớt phật thủ, ớt dài, ớt chỉ thiên, rồi thịt rắn, thịt mèo, thịt chó, ăn được tuốt, người ông cao, to, mạnh mẽ, râu ria quai nón, xồm xoàm, mắt ông hơi mọng, hai má ông nổi lên hai thớ thịt nằm ngang, nên tướng ông có vẻ dữ tợn. Khi mới tới đây, mỗi khi ông đứng chống nẹ giữa phố, trẻ con sợ hãi chạy re, thậm chí buổi tối những bà mẹ dọa con cũng nói:

- Không nín, ông lính râu xồm đến bắt bây giờ!

Nhưng thực ra ông lại chẳng hung dữ một tý nào, còn hiền là khác. Bà con trong thị trấn sau khi làm quen với ông, mọi người đều thấy rằng: mặt như ông Ác trợn trừng, mà lòng như Phật, vô cùng từ bi.

Hồi mới giải phóng, ông cũng đã từng lấy vợ một lần, cô vợ béo tốt trắng trẻo, tóc tết thành một chiếc đuối sam dài ở sau gáy, cũng người từ miền Bắc xuống. Nhưng không tròn nửa tháng, cô vợ đã khóc rưng rức, rồi đi mất, không bao giờ còn trở lại nữa. Vậy mà chưa bao giờ người ta nghe thấy hai vợ chồng to tiếng, ngay cả tiếng vo ve nhỏ như tiếng muỗi cũng không có. Điều đó làm cho ông Cốc xấu hổ, mất thể diện. Ông không trách móc cô vợ ấy, vì nguyên nhân chính, là nằm ở nơi ông. Ông cảm thấy như ông phạm tội lừa dối đàn bà con gái, nên đến mấy tháng liền ở thị trấn Phù Dung này, ông chẳng dám ngẩng đầu lên nhìn rnặt một ai. Khi ấy mọi người ở thị trấn chẳng ai biết căn cốt là chuyện gì, người ta cứ tưởng ông bị mất một loại giấy tờ vô cùng hệ trọng, nếu không tìm lại được ắt không xong, Nhưng sau, lại là chuyện từ ngày ông đánh du kích chiến, địa đạo chiến ở miền Bắc, chẳng may, bị đạn của địch, bắn trứng đùi, sát háng, nên bị luôn cái chứng bệnh khốn khổ kia. Các bà các chị, nếu chẳng may mắc phải cái bệnh tương tự như thế, cũng còn có thể tìm thầy, tìm thuốc được. Nhưng đàn ông nam giới mắc cái chứng bệnh này, có ít ai dám nhắc tới nó, bởi khi vừa nhắc tới, mọi người đã phá ra cười, rồi chế giễu rầm rầm. Huống hồ khi ấy, súng đạn còn réo đùng đoàng bên tai, lựu đạn đôi khi còn nổ ngay cạnh người, vùi sống anh trong đất cát, mồm miệng cũng bị nhét đầy bùn đất, nửa đêm tỉnh lại, mới sờ sờ nắn nắn xem chân tay mình có còn đủ hay không, thôi thì hãy giữ lấy cái đầu đi chiếm lại giang sơn, giành lại thiên hạ, rồi dần dần sau này sẽ tính chuyện chạy chữa. Còn cứ nghĩ rằng, làm sao sống tiếp được, để đón chờ thắng lợi, sống cuộc sống thái bình khiến bệnh đã trở thành khó chữa, vấn đề càng khó giải quyết hơn. Những ông chính trị viên, ông nào cũng đầu óc thô thiển, lòng dạ hẹp hòi, (ôi, hỡi những ông chính trị viên thời kỳ chinh chiến, vốn là huynh trưởng thậm chí là người mẹ của chiến sĩ ơi!) cuối cùng, trên đường hành quân cũng phát hiện ra cái nỗi đau khổ của người chiến sĩ lúc đó đã gần ba mươi tuổi, nên trên đường Nam hạ, đi qua thị trấn Phù Dung đã để người chiến sĩ ấy lại cho vùng đất sơn thanh thủy tú này, chuyển sang làm công tác địa phương. Song ông vẫn xấu hổ, không dám đi tìm thầy khám bệnh, làm lại len lén đi uống gần mười thang thuốc lá, cũng chẳng thấy có tác dụng gì. Đấy, người chiến sĩ đã tham gia lật đổ được cả một dải núi của chủ nghĩa phong kiến; mà trong đầu óc lại vẫn giấu giếm những ý thức phong kiến! Khoa học sẽ lột sạch con người ta ra, không để một sợi vải trên người, ngay giữa ban ngày ban mặt, rồi cả một đám đàn ông, đàn bà khoác áo choàng trắng, đeo những chiếc khẩu trang lớn, dòm dòm ngó ngó, hết bên phải lại sang bên trái, sờ sờ, nắn nắn, khám khám, xét xét, giống như vây quanh một con ngựa đực vậy. Ông không thể nào chấp nhận được nỗi “ô nhục, ghê tởm” ấy. Sau, ông nghe người ta nói, đàn ông, cứ lấy vợ vào là một số thứ bệnh nào đó sẽ dần dần khỏi hẳn. Ông nghĩ ngợi rất lâu mới đi đến quyết định, không lấy con gái địa phương mà kiếm lấy một người vợ ở quê nhà, để lỡ mà không làm ăn gì được, cũng còn có chỗ để rút lui, ít nhất cũng không gây ảnh hưởng xấu ở địa phương. Sự việc về sau, quả đúng như mọi tính toán của ông, và coi như một chuyện phụ bạc lòng người. Vì ông cự tuyệt, đứng ngoài ngưỡng cửa khoa học, nên khoa học cũng chẳng tỏ được tình hữu ái đối với ông. Suốt cho đến nay ông vẫn đều đặn gửi lương về cho vợ, để chuộc lại tội lỗi vẫn canh cánh bên lòng.

Đối với việc này, dân phường phố trong thị trấn cũng u buồn mất đến nửa năm, mới hiểu ra được một nguyên do: Có lẽ trong người chủ nhiệm Cốc, có một thứ bệnh mà những người con gái hiền thục không thể chấp nhận được, nhưng lại không tiện nói ra. Về sau có những người đàn bà tốt bụng, nhưng lại quá ngờ nghệch, đã tìm cách giới thiệu cho ông mấy đám, nhưng đều bị ông dứt khoát chối từ, dần dần về sau, những người thành niên ở thị trấn, bỗng như có mật ước, không bao giờ nhắc tới chuyện vợ con của ông nữa. Do đó mà hai tháng trước, khi chị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh tống tình chim chuột ông, đã bị va đầu vào đá ngay từ khi tung ra những cơn sóng tình đầu tiên. Tất nhiên chẳng có ai rỗi hơi, đi kể câu chuyện đầu cua tai nheo ấy cho chị cửa hàng trưởng nghe.

Lại nói trở lại, tuy ông Cốc không có đường “tử lộ” (1) nhưng ông lại là người có duyên, tất cả những cô thiếu nữ, những cậu con trai mới lớn của thị trấn đều nhận ông làm “bố nuôi”, và ông cũng rất quý mến bọn trẻ con ấy. Vì thế mà trong nhà ông lúc nào cũng đông đặc bọn con trai con gái chơi đùa, chúng nhảy nhót, nhào lộn trên giường ông. Trên bàn, dưới đất chỗ nào cũng đầy những đồ chơi như ô tô, tàu hỏa, xe tăng, đại pháo... rồi lại cả kẹo bánh và sách cho trẻ con nữa. Ông cũng còn cho nhiều đứa tiền mua sách vở, bút chì, thước kẻ, đủ thứ. Căn cứ vào sự tính nhẩm, tính miệng của mấy nhà kinh tế dân gian ở thị trấn, mỗi tháng ông phải bỏ ra tới mười mấy phần trăm lương, chi cho con cái đám “con trai con gái nuôi” này. Đám thanh niên trong thị trấn, khi con trai lớn lấy vợ, con gái lớn lấy chồng đều mời ông làm chủ hôn, nói dăm ba câu khuyên răn, phải trái. Và bao giờ ông cũng có món quà mừng không hậu không bạc. Nhiều gia đình trong thị trấn mỗi khi có người già cả, hoặc những khách khứa sang trọng đến chơi, đều mời ông tới tiếp khách hộ, thậm chí trong nhà có miếng ăn ngon, cũng mời ông tới uống chén rượu vui, và đều có lời giới thiệu với khách rằng:

- Đây là chủ nhiệm Cốc của thị trấn, là cán bộ cách mạng lão thành Nam tiến...

Hình như lời giới thiệu ấy đã đem lại sự vinh hạnh cho chính gia đình họ.

Năm tháng trôi qua, ông Cốc sống trong cuộc sống của người dân bản trấn và có một tác dụng an lạc, hòa giải. Bởi vì đôi khi, hàng xóm, láng giềng, chẳng tránh khỏi những điều va chạm vì con gà con chó con lợn con mèo, thường câu nói cửa miệng của mỗi người sẽ là:

- Đi, đi! Đi tìm ông Gốc, để xem ông ấy nói thế nào. Tôi sợ rằng ông ấy lại chẳng mắng anh là ngậm máu phun người ấy chứ lại!

- Nào! Ông Cốc là người trong nhà, đúng không? Ông ấy là người của thị trấn, đúng không? Chỉ cần ông ấy bảo tôi sai, tôi xin chịu ngay!

Về phần ông Cốc, cái con người mắt trố, râu ria xồm xoàm, dáng vẻ đầy hung tợn ấy lại luôn luôn vui lòng làm một người bình luận, phán xét trong dân chúng phố phường, người đáng mắng, đáng khuyên răn, ông khuyên răn. Nguyên tắc của ông là: việc to coi như việc nhỏ, việc nhỏ coi như không có gì, không để cho chuyện bé xé thành to, rách việc. Nếu như gặp phải những chuyện kinh tế, tiền tài, thì tùy tình hình mà ông móc ví riêng của mình ra. Cho nên thông thường, cả hai bên cãi lộn đều cùng đến ông, tạ tình, cáo lỗi với ông. Đôi lúc, khi ông lên huyện giải quyết công việc hoặc họp hành, vài ba ngày chưa về, cứ vào lúc nhá nhem, người ở đầu phố cuối phố Đá Xanh, khi bưng bát cơm lên đã hỏi nhau:

- Đã thấy ông Cốc về chưa?

- Mấy ngày rồi mà vẫn chưa về cơ nhỉ?

- Có khi được thăng chức, điều đi mất rồi ấy?

- Nhân dân toàn thể thị trấn ta phải viết cái giấy lên ủy ban huyện bảo rằng, nếu cho ông ấy làm quan thì cứ cho làm quan ở ngay thị trấn này cũng được chứ sao?

Còn như tại sao, ông Cốc lại chủ động đề xuất, báo cho “cô Phù Dung” rằng mỗi phiên chợ bán cho quán hàng canh bánh tráng 60 cân đầu mày tấm gãy, cho đến nay vẫn còn là một câu đố, việc này, về sau đã dẫn tới cho ông một tai họa to lớn, nhưng chưa bao giờ ông chịu nhận đó là tội lỗi, cũng như chưa bạo giờ ông hối hận vì nó. Về sau này “cô Phù Dung” bị quy định thành phần là “mụ phú nông”, ông cũng không hề thay đổi thái độ đối với cô, mười năm, hai mươi năm vẫn giống như một ngày. Đấy là chuyện về sau.

Phòng thương nghiệp huyện có gửi xuống cho ban quản lý chợ Phù Dung một bản công văn đánh máy, có dấu son đỏ chót:

Cần phải kiểm tra lại trong thị trấn mấy năm gần đây những hàng quán, hàng rong, đã lợi dụng khi kinh tế nhà nước gặp khó khăn, tiến hành những vụ đầu cơ buôn lậu lớn để kiếm lãi to. Cũng có rất nhiều xã viên bỏ ruộng đất đi buôn, và dùng những vật tư nguyên liệu thuộc loại nhà nước thống nhất quản lý để chế biến, bày bán khắp nơi những thức ăn sống, thức ăn chín, làm rối loạn thị trường, phá hoại nền kinh tế tập thể của công xã.

Ban quản lý chợ của thị trấn cần phải ngay lập tức tiến hành thanh tra, kiểm tra tất cả các hàng quán, hàng rong một cách thật triệt để và thủ tiêu, cấm ngặt. Đồng thời phải báo cáo kết quả về ngay phòng.

Ngày... tháng... năm 1963

Phần cuối của công văn, còn có thêm lời phê của trưởng ban tài mậu “Đồng ý”, lại còn có thêm cả mấy lời phê của bí thư huyện ủy phụ trách khối tài mậu Dương Dân Cao phê: “Vấn đề thị trấn Phù Dung cần được quan tâm chú ý”. Xem thế đủ biết cái lý do có tờ công văn ấy.

Tờ công văn trước hết là được đưa tới tay ông chủ nhiệm cửa hàng lương thực Cốc Yến Sơn, bởi vì khi ấy thị trấn Phù Dung chưa có ban quản lý chợ riêng, nên các cán bộ quản lý đều là làm kiêm, để làm công tác bình ổn và điều chỉnh, xử lý những va chạm, thắc mắc, đồng thời lo luôn cả việc phát giấy “đăng ký kinh doanh tạm thời”. Cốc Yến Sơn là ủy viên chủ nhiệm. Ông chủ trì triệu tập một cuộc họp của ban quản lý, những người tham gia bao gồm, trạm trưởng trạm thuế vụ dịch vụ thị trấn, chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng, bí thư đại đội sản xuất Lê Mãn Canh.

Trưởng trạm thuế đề xuất:

- Nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh, gần đây cũng rất nhiệt tình với công việc quản lý thị trường, và an ninh đường phố, xem có nên mời chị ấy tham gia không?

Ủy viên chủ nhiệm Cốc gạt đi:

- Nhiều người thêm rách việc, cửa hàng ăn uống là do hợp tác xã cung tiêu quản lý, đã có chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu rồi, hà tất gì phải làm phiền đến chị ấy.

Đầu tiên Cốc Yên Sơn đem công văn ra đọc một lượt. Thế là mấy ông cán bộ đầu ngành của thị trấn bắt đầu bàn bạc:

- Rõ ràng rằng, có người ở thị trấn ta đâm đơn kiện cáo.

- Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm giời, thì cũng phải cho những người buôn thúng bán bưng người ta kiếm bát cơm ăn chứ!

- Có những người lĩnh lương nhà nước, ăn gạo nhà nước, mà lại còn đi xoi mói cơm áo gạo tiền của dân, moi móc bụng no bụng đói của dân thế này ư!

- Lần trước xuất hiện một cái khẩu hiệu “phản động”, đã làm cho gà chó bất yên; lần này lại cái tờ công văn này, thật đúng là càng bới càng rối!

Chỉ có bí thư chi bộ đại đội sản xuất là không lên tiếng, anh cảm thấy tất cả mọi chuyện này đều có liên quan tới cái vị nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống kia. Lần trước cửa hàng trưởng cãi nhau với Hồ Ngọc Âm, chính anh đã được chứng kiến. Trước đó nữa anh cũng đã được biết rằng, chính cái chị cửa hàng trưởng này là cô cháu ngoại lẳng lơ có chóp của ông bí thư khu ủy Dương Dân Cao. Nhưng bây giờ cái đồng chí nữ này đã già đi nhiều, sắc mặt đã vàng ra, da dẻ đã bắt đầu nhăn nheo, quanh mắt đã nổi những bọng thịt, rõ ràng đã sa sút hơn ngày xưa nhiều, thảo nào, mấy lần gặp mặt mà vẫn chẳng nhận được ra nhau. Nghe nói là chị ta vẫn chưa lấy chồng, vẫn là một cô gái già, đại khái là đã dốc hết cả tâm trí, cùng sức lực đầu tư cho sự nghiệp cách mạng thì phải. Trước đây ít hôm, bà cửa hàng trưởng, cùng với Vương Thu Xá, đã giúp mấy anh công an, triệu tập tất cả phần tử loại 5 ở thị trấn lại để huấn thị, dạy dỗ, đối chiếu bút tích. Như thế đủ thấy rằng, con người ấy chẳng phải chỉ là một cái củ cải trong cửa hàng ăn uống. Sau vụ đó, mấy anh công an đã sắp xếp cho Vương Thu Xá làm nhân viên an ninh ở phố Đá Xanh, mà không thèm hỏi ý kiến của bí thư chi bộ đại đội sản xuất. Bây giờ phòng thương nghiệp huyện lại tống đạt cái công văn này xuống... Công việc thế là rắc rối đấy! Còn như qua tờ văn bản bằng giấy này, chị ta có giở thêm ngón nghề gì nữa không, anh vẫn chưa tính đến. Tất cả mọi người có mặt ở đây đều chỉ là thấy việc thì bàn việc vậy thôi, chứ chưa có ai đi phân tích kỹ cho tới ngọn ngành công việc.

Các ủy viên sau khi bàn bạc, kết luận: Căn cứ vào tinh thần chính sách của trung ương, của tỉnh, của địa phương có liên quan tới việc mở cửa cho các chợ búa ở nông thôn, thấy rằng, không nên cấm ngặt hoặc thủ tiêu tất cả, mà nên cho các quán nhỏ, các hàng rong được tồn tại một cách hợp pháp, vì thế quyết định: Đối với tất cả những quán hàng, tiệm nhỏ cùng những người bán rong trong thị trấn, đều phải đăng ký lại, công việc cụ thể do trạm thuế vụ phụ trách, đồng thời phát nhất loạt giấy phép kinh doanh tạm thời. Sau đó dựa vào các điều khoản, chính sách, cùng tinh thần chấp hành công văn, viết một báo cáo gửi lên phòng thương nghiệp huyện, đồng kính gửi lên ban tài mậu và bí thư huyện ủy phụ trách khối tài mậu Dương Dân Cao.

Trạm trưởng thuế vụ cười hỏi Lê Mãn Canh:

- “Cô Phù Dung” bán canh bánh tráng, là em nuôi của anh, vậy đại đội sản xuất của các anh có đồng ý để cho cô ấy bày hàng, tiếp tục kinh doanh không?

Lê Mãn Canh đưa cho trạm trưởng thuế vụ một điếu thuốc lá tổ sâu nói:

- Việc quan, cứ phép công mà làm. Không có chuyện “nuôi” chuyện “nấng” gì ở đây cả. Mỗi phiên chợ Hồ Ngọc Âm có đến trạm thuế nộp thuế đấy chứ? Cô ấy cũng đã đóng góp cho đội sản xuất những công thiếu, nhưng cả hai vợ chồng đều là những người rất tích cực với công việc sản xuất tập thể của đội sản xuất. Đại đội sản xuất chúng tôi cho rằng việc kinh doanh thêm cái quán nhỏ cũng chỉ là một thứ nghề phụ, phù hợp với chính sách của Đảng, nên có thể phát cho cô ấy giấy phép kinh doanh.

Chủ nhiệm Cốc quay về phía Lê Mãn Canh gật đầu, tỏ ý tán thành ý kiến thấu tình đạt lý của bí thư chi bộ đại đội sản xuất.

Khi cuộc họp giải tán, chủ nhiệm Cốc cùng với bí thư chi bộ Lê Mãn Cạnh còn đứng lại với nhau một lát. Cả hai người hình như còn có một chút tâm sự muốn trao đổi.

Ông Cốc tính tình vốn khoan hậu, nhưng tư tưởng vẫn còn vô cùng nhạy bén nên hỏi:

- Này người anh em, anh có ngửi thấy cái mùi vị tanh tưởi trong không khí này không?

Lê Mãn Canh trả lời theo kiểu ví von:

- Con ong bò vẽ lao vào tổ ong mật thì rồi ra ngày tháng sẽ chẳng yên ổn cho đâu.

Ông Cốc than vãn:

- Ôi! Mong sao đừng xảy ra chuyện gì là hay nhất. Thông thường một viên cứt chuột là làm hỏng cả nồi canh.

- Ông là người có uy tín ở thị trấn, nhờ vào ông mà mọi việc ở thị trấn đâu vào đấy. Nếu không, người phải chịu thiệt thòi nhất sẽ là cô em nuôi Hồ Ngọc Âm của tôi...

- Đúng thế, cô em nuôi của anh là một người yếu thế, mỏng lực. Chúng ta còn trụ được ở đây, sẽ là những người che chở cho gia đình cô ấy được sống yên ổn. Một vài hôm nữa tôi sẽ lên tỉnh, tìm kiếm mấy ông bạn chiến hữu, tìm cách tống khứ cái con chúa cái bò vẽ ấy đi.

Đã nói được hết với nhau những lời cần thiết, hai người chia tay.

Cuối mùa thu năm đó, nữ cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống quốc doanh ở thị trấn Phù Dung bị điều đi, chị ta về huyện làm trưởng một ban của phòng thương nghiệp. Mọi người trong thị trấn đều thở phào nhẹ nhõm, đã hất tung đi được một đám mây đen u ám nặng nề như một khối chì xám xịt vẫn lơ lửng treo trên đầu họ.

Nhưng những người ở thị trấn miền núi ấy đâu có hiểu được rằng, giữa cái đêm thu họ đang yên tĩnh ngủ say, đầy phố vang lên tiếng ngáy ấy, lại có một bản báo cáo viết tay của công an huyện tường trình lên bí thư huyện ủy đang nằm trên bàn làm việc của Dương Dân Cao. Đèn trong phòng làm việc không bật, chỉ có mỗi một chiếc đèn bàn le lói sáng. Ánh sáng của ngọn đèn, chiếu thành một vòng tròn trên tấm kính bàn làm việc. Bí thư Dương Dân Cao ngồi trên một chiếc ghế tựa bằng mây nằm bên ngoài vòng ánh sáng, nên nét mặt ông trở nên mờ ảo, không rõ nét. Ông trầm tư trước bản báo cáo rất lâu, và rồi bất chợt, ông quay cây bút chì trong tay, ông vẽ lên trang giấy có tiêu đề vốn dùng để viết công văn một bức sơ đồ của một “tiểu tập đoàn”. Khi ngọn bút có sức nặng nhìn cân của ông, rơi vào cái tên Cốc Yến Sơn, “Đại Binh phương Bắc” mà ông đã viết lên đó, ông hạ thêm cái dấu rồi ông lại xóa ngay đi. Cái sơ đồ “tiểu tập đoàn” mà ông đắn đo cân nhắc như sau:

.

Vẽ xong, ông nhắc lên tự thưởng thức một lát, rồi vò nát, vo viên tờ giấy lại, ném vào sọt giấy vụn ở phòng làm việc. Ông suy nghĩ lại, rồi hình như chẳng an tâm được bao nhiêu, ông lại nhặt viên giấy từ sọt giấy vụn ra, vuốt thẳng, bật một que diêm, đốt.

Dưới ánh đèn của bàn làm việc, ông giống như tất cả những người phải giải quyết trăm công nghìn việc một ngày, nên quá ư mệt mỏi, đến nỗi mắt sưng vù, mặt mày vàng võ. Tưởng chừng như sau khi đã phê chuẩn xong bản báo cáo này của công an huyện, là ông có thể ra ngoài ban công co duỗi tay chân, tập thể dục một lát cho giãn xương giãn cốt, quay quay mấy vòng cái cổ đã mỏi cứng, rồi rửa mặt mũi, ngâm chân nước nóng, và đi chợp mắt lấy một giấc ngủ ngắn ngủi dăm ba tiếng đồng hồ. Cuối cùng ông rút lấy một tờ giấy chuyên để viết công văn, cầm lấy bút. Cây bút nặng trịch, bởi nó liên quan tới không ít tính mạng con người. Ông đắn đo, lựa chọn, từng chữ một, viết rằng:

Thị trấn Phù Dung là nơi giáp giới ba tỉnh, một khu xa xôi hẻo lánh, tình hình phức tạp. Xưa nay vẫn là một điểm nóng trong công tác chính trị của huyện ta. Về cái “tiểu tập đoàn”, thứ nhất là không nên vội vàng khẳng định, nhưng cũng không thể dễ dàng phủ định, không thể không quan tâm tới. Tất cả các bộ môn có liên quan, cần phải hết sức cảnh giác. Nếu phát hiện tình hình gì mới, lập tức phải báo cáo ngay với huyện ủy, không được lơ là chậm trễ.

Chú thích:

(1) Đường con cái. (Nguyên chú).