ÔI, NGÔI NHÀ SÀN -
NGÔI NHÀ SÀN VỐN LÀ NƠI NGHỈ CHÂN CỦA MỘT nhà giàu có sung túc miền núi. Nó hoàn toàn bằng gỗ. Khi xây dựng đã được tính toán hết sức kỹ lưỡng. Thế của nó: dựa núi, cạnh sông, dưới bóng cây xanh mát và đột khởi lên trong vùng núi đá lô xô. Nó có bốn cây cột chôn xuống đất, rầm ngang rầm dọc đều có mộng khớp vào nhau, gỗ bắp lợp mái. Ngôi nhà nói chung có hai tầng, nhưng dựa theo thế núi cao dần lên, nó có tới bốn tầng. Tầng thứ nhất, chuồng lợn, chuồng trâu. Tầng thứ hai, nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ cùng các thứ vặt vãnh, tạp nham. Tầng thứ ba là nhà bếp, tất cả người trong nhà đều ăn uống tại đây, đồng thời cũng là nơi tiếp khách, hát xướng, kể chuyện. Tầng thứ tư là phòng ngủ. Ở tầng bếp, có hành lang chạy bốn xung quanh, nhưng bên dưới không có cột chống, dùng vào việc: ban ngày ngắm mây, ngắm gió, ban đêm ngắm trăng ngắm sao, vì thế nó được gọi là “nhà sàn”. Những người mới tới vùng này, thoạt nhìn ngôi nhà sàn có vườn cây ăn quả, có khe biếc, núi xanh, với cái mái nhà nhòn nhọn bằng gỗ bắp, cùng bốn cây cột màu vàng nâu, lại có dây leo trên những bức tường gỗ và trên đỉnh nóc nhà, điểm xuyết bằng những bông hoa hình loa kèn, sẽ cảm thấy mình như đang đi bộ vào một nơi đầy tân kỳ thần bí.
Hồi cải cách ruộng đất, Vương Thu Xá được chia quả thực ngôi nhà sàn gần phố này. Nó vốn là nơi dừng chân tạm nghỉ của một tên ác bá vùng núi, mỗi khi hắn xuống chợ. Trước cửa nhà trước đây vốn có hai khóm cây đông thanh thấp, bây giờ đã thành hai bụi rậm, cao ngập đầu người. Phía sau nhà có trồng mấy khóm chuối tiêu thật to, và hai cây quất vàng. Đến nay những cây chuối đang ngắc ngoải, hai cây quất, thân mình lỗ chỗ đầy sâu. Ngôi nhà chia làm hai tầng trên dưới: tầng dưới ngày xưa là nhà bếp và là nơi ăn ở của bọn đầy tớ; tầng trên là nơi ăn uống, chơi bời, hành lạc của một tên ác bá. Tầng nhà này được chia làm đôi, một nửa phía quay ra đường phố, làm phòng khách, nửa phía trong chia thành ba gian phòng ngủ. Nhưng bây giờ Vương Thu Xá chỉ dồn lại, ăn ở vào một tầng dưới, còn tầng trên vẫn thường xuyên bỏ không, nay dành riêng cho các nam nữ đồng chí trong tổ công tác ở nhờ. Trước đây trên tầng ấy còn có một chiếc giường chân cao trang trí hoa văn đẹp đẽ còn chưa bán mất đi, Vương Thu Xá cũng đã từng ở trên đó vài ba năm và đã từng mơ màng những giấc mộng thần tiên trên chiếc giường chân cao đó. Ôi chao, cái hồi ấy, không hiểu sao mà người lúc nào cũng như ma ám quỷ trêu. Trong óc hắn lúc nào cũng mường tượng thấy cái tên ác bá ngày xưa, nghiêng người trên chiếc ghế trúc mát rượi, rồi vừa uống rượu vừa ôm những cô gái, vừa nghe hát và bỡn cợt, chơi bời như thế nào. Có khi hắn nằm dài trên đệm, nhắm mắt lại và trong đầu lại hiện lên những ý nghĩ lăng nhăng vớ vẩn: Mẹ kiếp, chính trên chiếc giường này, chính trên chiếc đệm này, tên ác bá đã chơi bao nhiêu cô gái, bao nhiêu mụ nạ dòng? Bao nhiêu đứa béo, đứa gầy?... Cái thằng ác bá ấy sau này bị bệnh giang mai, rồi sau chết thảm, chết khổ. Thật đáng đời! Mẹ kiếp! Nhưng lúc nào hắn cũng cảm thấy trên giường vẫn còn phảng phất mùi son phấn và trên mép gối vẫn còn đọng lại hương thơm nơi khóe miệng.
Chết dưới hoa mẫu đơn, thành quỷ cũng phong lưu! Dần dần hắn đã nghĩ ra được những hành động mới. Trong những ngày tiết trời ấm áp, màu trăng như nước, trong những đêm mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, hắn chẳng giữ nổi mình, hắn từ giường vùng dậy nhảy tót sang phòng khách, rồi mô phỏng các kiểu ăn chơi của tên ác bá miền núi, hắn cũng nghiêng người trên chiếc ghế tre mát rượi, ôm lấy cái gối, giả làm cô kỹ nữ:
- Nào cục cưng, hát đi một bài cho ông nghe nào! Dạ quan lớn muốn nghe bài nào ạ? Lại còn phải hỏi nữa ư? Cưng là gan ruột của ông! Ông là cây tiền của cưng...
Hắn ôm lấy cái gối và có hỏi có đáp như thế. Trước kia những ông quan có danh ở miền núi, thỉnh thoảng có ngâm nga đôi khúc Kinh kịch, mới được gọi là hợp thời. Nhưng hắn không biết hát Kinh kịch, hắn chỉ biết hát mấy câu theo kịch Hoa Đăng quê mùa:
Ơ này, em với anh,
Ơ này, anh với em.
Lưỡi anh đã liếm lưỡi em ngọt tình,
Nào em hãy cắn môi anh...
Đôi khi hắn còn để chân trần chạy rùng rùng đuổi bắt quanh phòng khách, quanh phòng ngủ. Hắn đuổi bắt cái gì, chỉ trong bụng hắn là hiểu được. Hắn đuổi bắt một ảo ảnh. Khi hắn chạy quanh cột nhà, khi hắn nhảy vọt qua ghế, khi lại chui qua gầm bàn, miệng lầu bầu chửi bới:
- Đồ đĩ! Đồ yêu tinh! Mày chạy đi đâu cho thoát? Mày trốn vào đâu cho thoát! Ha ha ha, hi hi hi, cái con yêu tinh thần nữ này. Cái con đĩ rời đĩ rạc này...
Hắn cứ đuổi bắt như thế cho đến khi mệt mỏi rã rời, cuối cùng hắn thở hổn hển, vật người lên chiếc giường chân cao khảm hoa văn, nằm sóng sượt như một con rắn chết. Nhưng cuối cùng hắn cảm thấy trống rỗng, hắn bối rối, đau lòng, và nước mắt ứa ra:
- Ngày xưa, bọn ác bá miền núi này có ăn, có uống và có đàn bà... Nay đến lượt ông... chỉ là một giấc mơ...
Có một thời gian, dân phường phố xung quanh nghe thấy trên ngôi nhà sàn vang lên những tiếng thình thình, kèm theo những tiếng cười, những tiếng nhiếc mắng, tưởng là con hồ ly tinh đã hiện về ở trên gác và cái thằng Vương Thu Xá không chịu học hành, không chịu đi theo con đường chính đáng đã bị ma ám, bị yêu quái làm cho mê muội đi rồi.
Trước đây đã có mấy người muốn mối lái vợ con cho Vương Thu Xá, mong sao hắn thành gia lập nghiệp, sống những ngày đường hoàng với vợ con, nay đã rút hết, không mối lái gì nữa. Còn đàn bà con gái nói chung, giữa ban ngày ban mặt mà phải đi qua ngôi nhà sàn, đều phải cúi đầu, rảo bước để khỏi bị cái “hơi ma” ám vào người. Về sau, chính bản thân Vương Thu Xá cũng tự dối mình, bảo rằng quả thật hắn cũng đã mấy lần gặp hồ ly tinh trên nhà sàn, nó rất yêu kiều, xinh đẹp, chỉ trừ có mỗi một mình cô Hồ Ngọc Âm bán canh bánh tráng ra, còn không ai có thể so sánh với nó được. Từ đó Vương Thu Xá thôi không lên ngủ trên tầng trên ấy nữa. Không phải là hắn sợ hồ ly tinh gì đó, mà hắn sợ chuyện giả thành chuyện thật, hắn sẽ mắc bệnh thần kinh và “điên vì tình”.
Ít lâu sau, trong thị trấn lại có tiếng đồn đại bảo rằng: Chủ nhân ngôi nhà sàn chẳng có gặp yêu quái nào hết, mà chỉ là do say đắm cô Phù Dung bán canh bánh tráng mà thôi. Và đã mấy lần đến quán trọ Hồ Ký tán tỉnh, nhưng đều bị Hồ Ngọc Âm bạt tai cho, về sau Lê Quế Quế phải rút dao bầu ra, hắn mới chịu thôi đi. Nhưng vợ chồng Hồ Ngọc Âm trong thị trấn, vốn là người đứng đắn xưa nay, làm ăn chăm chỉ, cần mẫn giữ nếp thực thà, do đó mà những lời đồn đại ở xó chợ, đầu đường đều chẳng đáng tin cậy.
Nhà cửa phải sửa sang, đền đài phải tu bổ. Ba người trong tổ công tác vào ở trong ngôi nhà sàn, khi ấy ngôi nhà đã bất thành dạng rồi, cả ngôi nhà sàn ấy đã nghiêng đi, chỉ còn dựa vào sự chống đỡ của ba cây cột, đều có treo một khối đá nặng trăm mấy mươi cân buộc bằng dây thép. Trong những đêm trăng sao mờ mịt, đột nhiên mà nhìn thấy nó, trông giống như ba cái xác treo cổ, khiến phải sởn da gà. Dưới chân cột nhà sàn, chỗ thò lên sát mặt đất, bị nước ngấm đen sì, mọc đầy loài nấm phượng vĩ và đầy mối mọt. Cái loài nấm phượng vĩ cũng hay, túm tụm thành chòm như khảm những cánh hoa màu xanh cho cây cột gỗ. Phía sau nhà, cỏ rậm hoang vu, chen chúc mọc lút đầu lút cổ và đã vươn lên tới cửa sổ của tầng trên.
Ngôi nhà xiêu vẹo, sân sướng hoang vu, khiến tổ trưởng Lý Quốc Hương vô cùng xúc động, cảm thấy trách nhiệm của mình thật trọng đại. Giải phóng đã mười bốn, mười lăm năm, Vương Thu Xá “rễ của cải cách ruộng đất” này, vẫn còn phải sống những ngày nghèo khổ và vẫn không vươn mình toàn diện được. Vậy thì đây là vấn đề gì đây? Ba năm ròng khổ sở, thế lực tư bản chủ nghĩa ở nông thôn và thành thị đã ngóc đầu dậy rồi. Nếu không phát động phong trào, không nắm chắc đấu tranh giai cấp, nông thôn tất yếu sẽ biến thành hai cực và người giàu vẫn giàu, người nghèo vẫn nghèo, sẽ làm cho đất nước biến màu, Đảng biến thành xét lại, thành quả của cách mạng bị thui chột, chủ nghĩa tư bản phục hồi, giai cấp địa chủ tư sản lại đăng đài và lại phải vào rừng núi đánh du kích, tiến hành nông thôn bao vây thành thị. Khi ở dưới nhà bếp, Lý Quốc Hương nhìn thấy những chảo sứt, bát mẻ của Vương Thu Xá, thì mắt đỏ lên và lệ chảy! Ôi cái tình cảm giai cấp nồng thắm biết bao nhiêu. Nữ tổ trưởng và hai tổ viên đã làm một chuyện “người tốt việc tốt”, mỗi người bỏ ra hai đồng bạc mua về một chiếc nồi nhôm bóng loáng, một bó đũa nhựa, mười chiếc bát ăn cơm. Tổ công tác còn đích thân bỏ sức ra làm nghĩa vụ lao động. Tổ trưởng, tổ viên cùng bắt tay vào một lần dọn sạch hết những đám cỏ hoang gai dại, lấp phẳng những ổ rắn hang chuột, cấp cứu cấp tốc những cây bưởi (1) đang sống dở chết dở, làm vệ sinh môi trường thật sạch sẽ. Tổ trưởng Lý Quốc Hương bị rộp hết lòng bàn tay, trên cánh tay bị những vệt gai xước ngang xước dọc, đỏ lên đòng đọc. Phần trước cửa nhà sàn, nơi sát với mặt phố, bộ mặt cũng được đổi mới, nhà cửa được dán một đôi câu đối đỏ:
Thiên vạn bất vong giai cấp đấu tranh
Vĩnh viễn phê phán tư bản chủ nghĩa.
(Luôn luôn ghi nhớ giai cấp đấu tranh
Mãi mãi phê phán chủ nghĩa tư bản).
Để “bắt rễ” cho đúng, cho chắc ở thị trấn, nên tổ công tác chưa vội mở đại hội, dán khẩu hiệu, tuyên truyền động viên chỉ thuần tuý làm ầm ĩ bề mặt bên ngoài, mà chú trọng tới việc xâu chuỗi, nắm bắt tình hình, trước hết là phân định rõ ràng phái tả, phái hữu, phái trung gian trong toàn thể cán bộ của thị trấn, “phân cấp chính trị” trong đám cư dân, xác định xem trong phong trào vận động này sẽ dựa vào ai, đoàn kết với ai, giáo dục tranh thủ ai, cô lập đả kích ai. Một hôm Lý Quốc Hương bắt cả hai tổ viên trong tổ công tác, thâm nhập vào mấy gia đình “hiện là bần nông” trong thị trấn để “bắt rễ xâu chuỗi”, còn chị ta ở lại ngôi nhà sàn, để tiến hành bồi dưỡng trọng điểm cho Vương Thu Xá và đích thân đọc văn kiện cho “rễ” nghe. Kể từ hồi năm kia, sau mấy lần tiếp xúc với Vương Thu Xá, chủ nhân của ngôi nhà sàn, Lý Quốc Hương thấy ấn tượng của mình với hắn cũng không tồi và thấy rằng dễ uốn anh ta nên người: Đầu tiên là khổ lớn thù sâu, lập trường kiên định, đối với chỉ thị của thượng cấp không bao giò có lời thứ hai. Hơn nữa hình thức của con người này cũng chẳng đến nỗi nào, không cao không lùn, thân thể cường tráng, lúc nào cũng cười tít mắt thật dễ mến dễ thương. Điều quan trọng hơn cả là Vương Thu Xá có sự nhạy bén, phản ứng nhanh, miệng nói tay làm, biết cách ăn nói, có năng lực hoạt động tổ chức nhất định. Người ta bảo rằng xét người đừng xét theo cái vẻ bề ngoài, cho nên trước mắt đây, Vương Thu Xá, cái mặc cũng hơi rách rưới một tý thật, ăn uống cũng hơi có thô lỗ thật, nhưng nếu như thay cho anh ta mặc một bộ quần áo cán bộ, đeo thêm một cái cổ áo trắng giả, đi một đôi giầy giải phóng màu cỏ úa, rồi đem so sánh về phong độ với tất cả các trưởng ban, trưởng phòng trong toàn huyện chưa chắc anh ta đã kém ai. Chị ta có ý định bước đầu hãy xây dựng cho Vương Thu Xá thành một “điển hình”, nâng cao giác ngộ phong trào vận động của ban tuyên giáo, đồng thời là một tiêu binh tiên tiến, rồi từ đó sẽ tự mình nắm bắt được phong trào vận động trong thị trấn và rất có thể trỏ thành một lá cờ hồng trong toàn huyện.
Miệng Lý Quốc Hương đọc văn kiện, nhưng trong lòng lại nghĩ lan man tới những cái đó, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn Vương Thu Xá suốt từ trên xuống dưới. Đương nhiên rằng Vương Thu Xá không thể nhận biết ra được nỗi khổ tâm đó của người nữ tổ trưởng tổ công tác. Khi nữ tổ trưởng đọc tới những điều khoản: “Thanh tra giai cấp, thanh tra thành phần, thanh tra kinh tế”, thì tim hắn bỗng giật thót lên, mắt sáng ra và cổ họng ngứa ngáy, không thể nén nổi một câu hỏi:
- Thưa tổ trưởng Lý, trong phong trào vận động kỳ này, có phải nó cũng giống như hồi cải cách ruộng đất không... hoặc gọi là cải cách ruộng đất lần thứ hai phải không ạ?
- Cải cách ruộng đất lần thứ hai? Đúng, đúng, phong trào vận động này cũng bắt rễ xâu chuỗi giông như hồi cải cách ruộng đất, dựa vào bần cố nông, đánh đổ địa chủ, phú nông, phản động, phần tử xấu, phái hữu, đồng thời đánh đổ luôn các phần tử mới nảy sinh của giai cấp tư sản.
Lý Quốc Hương kiên tâm giải đáp những câu hỏi của “rễ” và đọc thông vanh vách các điều khoản, chính sách.
- Thưa tổ trưởng Lý, trong phong trào vận động kỳ này có đúng là quy định lại thành phần giai cấp không?
- Tình hình hết sức phức tạp, những nơi mà cuộc cải cách ruộng đất chưa làm được triệt để cần phải thành lập lại đội ngũ giai cấp, mặt trận của tổ chức giai cấp. Anh Vương này, anh nghe văn kiện, mà đầu óc biết suy nghĩ như thế là rất cừ, rất cừ.
- Tôi còn một điều chưa hiểu, cái điều khoản thanh tra kinh tế, có phải là sẽ thanh tra kiểm tra tài sản của tất cả các nhà, các hộ không?
Vương Thu Xá trợn tròn đôi mắt, nhìn chị nữ tổ trưởng không chớp. Chỉ một suýt nữa thôi là hắn đã hỏi cái câu: “Có chia của nổi không?”. Nữ tổ trưởng bị con người sống độc thân, ba mươi mấy tuổi này nhìn chằm chằm, khiến mặt mũi nóng bừng lên, nên vội vã ngoảnh mặt đi và tiếp tục giảng giải giới hạn của chính sách:
- Cần phải thanh tra công điểm, sổ sách, phân phối vật tư của đội sản xuất trong mấy năm gần đây. Cần phải thanh tra sự tham ô, lạm dụng, ăn uống nhiều, chiếm đoạt lắm của cán bộ cơ sở, cũng cần phải thanh tra những người nông dân bỏ ruộng đất đi chạy chợ, cùng những tài sản của những kẻ đầu cơ buôn lậu, rồi tiến hành triển lãm về đấu tranh giai cấp, nợ chính trị, nợ kinh tế đều phải thanh toán hết.
- Hay lắm, hay lắm, cuộc vận động này tôi ủng hộ! Dù rằng có phải ôm đầu đi giữa đêm đen, tôi cũng đi.
Vương Thu Xá vừa nói vừa đứng bật dậy, hứng khởi tới độ: tim đập thình thịch. Cái con mẹ nó! Ha ha, những công việc đã nghĩ từ mấy năm trước, đã ước mơ từ mấy năm trước và cứ tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ nó đến, vậy mà hôm nay nó đã đến rồi đây! Cưng ơi! Cải cách ruộng đất lần thứ hai, phân định thành phần lần thứ hai, chia của nổi lần thứ hai... Hãy xem đấy, tất cả những tiên đoán sáng suốt của thằng Vương Thu Xá này ra sao? Một lũ ngu xuẩn chúng mày, khi cải cách ruộng đất được chia ruộng tốt, đất tốt, trâu bò cày bừa, thế là lăn vào làm, chắt chắt bóp bóp, chỉ nghĩ đến chuyện xây nhà tầng, vun vén tài sản để làm giàu... Ha ha, thằng Vương Thu Xá này quả là có con mắt biết nhìn xa hơn lũ chúng bay, vẫn chỉ là chảo sứt, bát mẻ, bếp nứt, làm một thằng “bần nông hiện đại”, bây giờ tao sẽ “cách” cái “mạng” của chúng mày, “tranh” cái “đấu” của chúng mày. Toàn thân hắn nóng ran, đầy sức mạnh, hắn không nén nổi tình cảm của mình, đã vồ lấy hai cánh tay của nữ tổ trưởng nói:
- Thưa tổ trưởng Lý, cái thân xác hơn một trăm cân của tôi đây, tôi xin giao nó cho tổ công tác! Tổ công tác là cha là mẹ của tôi, tôi xin nhận sự điều khiển, sai phái của tổ công tác!
Lý Quốc Hương rụt tay mình về, trong lòng cũng thấy bồi hồi thích thú. Chị ta nén lại, nghiêm túc nói với “rễ”:
- Ngồi xuống! Thật chẳng ra làm sao cả, nếu cứ không có trên có dưới, không có lớn có bé như thế, rồi lại động chân chạm tay như thế, sẽ ảnh hưởng đấy, cần phải chú ý một tý chứ!
Vương Thu Xá đỏ mặt, ngoan ngoãn ngồi xuống, hắn vặn vẹo đôi bàn tay, vừa mới đây đã bóp bóp vào đôi cánh tay của nữ tổ trưởng và cảm thấy nó rất mịn màng:
- Tôi thật đáng tội chết! Chỉ một mực nghĩ tới sự ủng hộ các văn kiện, ủng hộ chính sách của cấp trên, nên, nên quên phứt đi mất tổ trưởng là nữ giới...
- Thôi, bớt những lời linh tinh đi. Tốt nhất là quay về việc chính.
Lý Quốc Hương quả là người rộng lượng, xuề xòa cười, vuốt lại mấy sợi tóc xõa xuống trán, không trách móc gì anh ta nữa.
- Anh là người đất này làng này, bây giờ anh thử nói xem, trong số các nhà ở thị trấn này, trong đó có hộ nào trong mấy năm gần đây làm giàu đặc biệt nhanh?
- Hãy nói về cán bộ trước, rồi sau sẽ nói đến các hộ gia đình! Cán bộ ở thị trấn thì... thì có một người giống như cây đại thụ bên bờ sông, tỏa bóng che đỡ cho cả đống những con cá tư bản chủ nghĩa nổi trên mặt nước. Mỗi phiên chợ ông ta bán cho Hồ Ngọc Âm 60 cân đầu mày tấm gãy làm bánh canh bán ra, kiếm được bự tiền để xây nhà. Có điều địa vị của ông ta rất vững vàng, rễ bắt cũng thật sâu và uy tín. Giả sử tổ công tác muốn động chạm tới ông ta e rằng cũng khó động chạm đấy.
- Ông ta? Hừ hừ! Nếu đúng là có vấn đề thật, thì tổ công tác của chúng ta cứ thử mó đít hổ một cái chơi! Còn những ai nữa?
- Còn một người nữa là trạm trưởng trạm thuế vụ. Nghe nói thành phần xuất thân của ông ta là tầng lớp quan liêu địa chủ, có thù với bần nông và trung nông lớp dưới, đã nhiều lần ông ta bảo tôi là “du thủ du thực” và là “dân vô sản lưu manh”.
- Ồ, ồ! Vu cáo khinh bỉ bần nông tức là vu cáo khinh bỉ cách mạng. Còn ai nữa?
- Còn một người nữa là bí thư chi bộ đại đội Lê Mãn Canh. Anh này lập trường chung chiêng, đã sử dụng phần tử xấu Tần Thư Điền cho viết khẩu hiệu, lại cho làm tiểu đầu mục của các phần tử loại 5. Lại còn nhận con bé bán canh bánh tráng Hồ Ngọc Âm làm em nuôi, lại còn kéo bè kéo cánh cùng với chủ nhiệm cửa hàng lương thực và chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu. Thị trấn Phù Dung là khoảng trời riêng của mấy con người này.
Những điều Vương Thu Xá nói, thực ra lại rất đúng. Mấy người đầu ngành này của thị trấn thường vẫn bảo hắn là rong chơi, lười biếng, ham nhậu nhẹt, sợ lao động vất vả. Lê Mãn Canh là tay cứng rắn nhất. Thường hay lầu bầu trong việc cứu tế lương thực cũng như quần áo cho hắn, thật đúng là chẳng có một chút tình yêu thương giai cấp nào hết. Hừ hừ! Những loại người như thế mà nắm quyền hành của đại đội sản xuất trong thị trấn này, thì hắn, Vương Thu Xá làm sao mà ngóc đầu, vươn mình lên được? Phen này nhà nước mở lượng hải hà, chiếu cố tới tình hình cơ sở, cử tổ công tác xuống, lên tiếng thay cho người nghèo nhất khổ nhất, sẽ “cách” những cái “mạng” những kẻ hiện đang có tiền, có thế!
Lý Quốc Hương vừa hỏi vừa ghi chép, đã nắm bắt được những điều cơ bản về những cán bộ trong thị trấn. Vương Thu Xá quả đúng là một cuốn sổ tay ghi chép, thằng cha ấy biết được nhiều điều, lại có một trí nhớ khá tốt, ai có quan hệ họ hàng thân thích với ai, có liên quan đầu dây mối nhợ với ai, ai với ai có những mối bất hòa, ai có thù hằn sâu sắc, thầm kín với ai, thậm chí ai đã từng lần mò lên gác nhà ai, ai đã lẻn vào chuồng gà chuồng lợn nhà ai, ai đã bị vợ tát cho nổ đom đóm mắt, con gái nhà nào đã từng phải ngậm đắng nuốt cay, khi lấy chồng chỉ còn là một cái củ cải rỗng ruột, những đứa trẻ nào đẻ ra không giống bố, mà lại giống những ai, những ai ai, hắn đều nói được một cách rõ ràng mạch lạc, đủ gốc đủ rễ, mà lại còn có đủ cả ngày tháng cùng nhân chứng. Vừa nghe vừa ghi chép, nữ tổ trưởng bỗng cảm thấy có phần nào cảm tình và thích thú đối với cái “rễ” này và có cảm giác rằng Vương Thu Xá giống như một khối đá xanh bị chìm dưới nước đã cuốn hút được rong rêu, rác rến, cùng với tôm cua, sò ốc bâu đến bên mình.
Nữ tổ trưởng hỏi:
- Trong vòng mấy năm, lợi dụng sự khó khăn của kinh tế nhà nước, cùng với chính sách mở cửa tương đôi rộng rãi, chợ búa, thị trường tương đối hỗn loạn, đã có những nhà nào buôn bán, phất lên, kiếm tiền, làm giàu trong thị trấn ta?
Vương Thu Xá giả bộ kinh ngạc, hỏi lại:
- Còn phải hỏi thế sao, tổ trưởng cấp trên, làm gì mà chẳng biết cả rồi? Tổ trưởng cấp trên đã nghe biết bao nhiêu lời phản ảnh rồi còn gì? Đó chính là Hồ Ngọc Âm chủ ngôi nhà mới xây dựng ở ngoài phố ấy! Cái nhà chị này mở cửa hàng bán canh bánh tráng, dùng nhan sắc của mình lôi kéo khách hàng, làm giàu to, hơn thế cái nhà chị này cũng ghê gớm lắm. Tất cả từ người già đến trẻ con ở thị trấn chẳng người nào là không vị nể chị ta. Cái ấy là do những cán bộ rất là... rất là...
- Rất là, rất là làm sao?
Nữ tổ trưởng hỏi với vẻ vừa sốt ruột vừa hiếu kỳ.
- Rất là... là mê đắm, khuôn mặt của chị ta, đôi mắt của chị ta! Bí thư đại đội nhận chị ta là em nuôi, khiến cho cô vợ của bí thư ghen lồng ghen lộn. Rồi chủ nhiệm cửa hàng lương thực cung cấp gạo tấm cho chị ta. Trạm trưởng trạm thuế cứ coi mình như ông cậu, mỗi phiên chợ chỉ thu của chị ta có một đồng bạc thuế. Ngay cả đến cái thằng Tần Rồ, cái tên thuộc phần tử xấu ấy cũng lại rất có duyên với chị ta nữa, chính hắn đã thu thập những bài sơn ca từ chính miệng chị ta, đê chửi bới xã hội chủ nghĩa là phong kiến, như thế chẳng phải là mụ đàn bà ghê gớm, thì còn là gì nữa ạ?
Cả một lô lời lẽ ấy đã khiến cho Lý Quốc Hương hiểu biết thêm được rất nhiều, nắm chắc được một lô những tài liệu quý bước đầu. Ngườơi chủ ngôi nhà sàn, rõ ràng là một nhân tài của thị trấn, để rồi thông qua thử thách của cuộc đấu tranh lần này, xem xem có thể bồi dưỡng anh ta được không.
Nửa tháng sau, tổ công tác đã nắm được toàn bộ tình hình cơ bản của tất cả các nhà, các hộ trong thị trấn. Nhưng quần chúng còn chưa được phát động lên, vì thế đã phải quyết định bắt tay vào việc thăm nghèo hỏi khổ, so sánh nhớ lại, ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, để kích thích tình cảm giai cấp của xã viên quần chúng. Cụ thể phải làm ba công việc như sau: Thứ nhất, khi ăn nhớ lại ngày đói khổ; thứ hai, khi hát nhớ lại những bài hát đau thương; thứ ba, mở một cuộc triển lãm về đấu tranh giai cấp trong đại đội sản xuất, với hai phần là trước giải phóng và sau giải phóng. Phần trước giải phóng cần tìm cho được một số hiện vật: Một tấm chăn rách, một chiếc áo bông rách, một chiếc làn nát, một chiếc bát đàn sứt mẻ, một chiếc gậy đánh chó.
Nhưng giải phóng đã mười bốn, mười lăm năm rồi, người nghèo đều đã vươn mình, đòi sống đã được nâng cao, nên bây giờ biết tìm đâu cho ra những đồ rách bẩn cũ nát ấy! Ôi chao, cái hồi cải cách ruộng đất ấy, người ta tràn trề vui sướng trong việc vươn mình, ruộng đất được chia cho từng nhà, người ta chỉ nghĩ đến việc làm sao cày cấy cho thật tốt mảnh đất được chia, chỉ tính sao bước gấp trên con đường sáng sủa của xã hội mới, ba cái thứ đồ tả tơi bươm tướp ấy còn sợ vứt đi không hết, ai còn đi giữ lại cái thứ chỉ gợi lên sự thương tâm ai oán mỗi khi nhìn thấy nó để làm gì và thật cũng chẳng có ai ngờ rằng, mười mấy năm sau người ta lại đi tổ chức triển lãm những thứ đó, để tiến hành ôn nghèo nhớ khổ làm gì. Cho hay, việc gì cũng phải có tầm nhìn xa, những thứ đồ rách nát, cũ kỹ, cũng có chỗ đứng rách nát cũ kỹ của nó. Càng ở những nơi nghèo khó, khốn khổ, lại càng cần phải ôn nghèo nhớ khổ. Những nơi của cải vật chất có kém đi một chút, thì của cải tinh thần cần phải có nhiều hơn. Ví như, có những nơi sản xuất của đội sản xuất tập thể không đẩy lên được, thóc lúa phân phối chẳng đủ ăn, có một ít xã viên chửi đổng, bất mãn. Ví như: lại có nơi, công điểm quá thấp, cả năm tính ra chẳng được bao nhiêu, nên đã có xã viên xé sổ ghi công, chửi đội trưởng, kế toán, ăn xén ăn bớt. Lại ví như, cán bộ lãnh đạo trong huyện, trong công xã thống nhất cách thức cày cấy làm ăn, quy định gieo cấy một giống lúa có phẩm chất cao nào đó của nơi khác, nhưng không hợp thung hợp thổ, nên sản lượng bị giảm đi trông thấy, thế là xã viên suốt ngày than vãn chỉ đất réo trời. Cho nên không thể không tiến hành ôn nghèo nhớ khổ. Không nhớ đến cái khổ xưa sao nghĩ được tới cái ngọt bây giờ? Mới giải phóng có mười bốn mười lăm năm trời, lắm sao có thể để quên đi mất những nghèo đói, tội nợ ngày xưa? Trong ba lá cờ đỏ, trong kinh tế tập thể làm sao có thể tránh khỏi những khiếm khuyết vụn vặt kiểu vỏ tỏi vỏ hành, lông gà lông vịt, vậy mà các người cũng ý kiến ý ong, thắc mắc thắc miếc. Đừng bao giò đứng núi này, trông núi nọ cao hơn bưng cái bát xấu mà nghĩ tối cái bát đẹp, ăn bát bo bo lại nghĩ đến bát cơm gạo tám, đừng có làm chuyện rắn nuốt voi. Vì thế ôn nghèo nhớ khổ phải được coi là bảo bối, nó chứa đựng rất nhiều tác dụng.
Tất nhiên rằng tổ trưởng Lý Quốc Hương cần phải tổ chức cuộc triển lãm để giáo dục giai cấp, ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, và để phát động quần chúng, triển khai cuộc vận động. Chị ta đã chạy rất nhiều nơi, khắp cả mọi nhà để tìm cho ra mấy thứ hiện vật cần thiết đem triển lãm, nhưng chẳng kiếm đâu ra. Chị ta bất chợt nảy ra một sáng kiến: Đúng rồi! Mình đã có một cuốn tự điển, trăm sự, sự gì cũng có ở trong tay, tại sao chẳng tìm ở đấy? Hoặc ít ra thì chủ nhân ngôi nhà sàn cũng nghĩ ra được một cái gì đấy. Một hôm vào bữa ăn trưa, chị ta đem việc này nói ra với Vương Thu Xá. Vương Thu Xá có vẻ ngượng nghịu, một lát sau mới do dự nói:
- Hiện vật thì cũng có một ít, nhưng chẳng biết có dùng được hay không?
- Cái gì mà không dùng được với chẳng dùng được, mau thử đem ra đây xem nào!
Hòn đá tảng trong lòng Lý Quốc Hương đã được hất bỏ, cười đến tít cả mắt, khi thấy “đối tượng tin cậy” bắt đầu đi lục lọi khắp các xó xỉnh trong nhà.
Chỉ một lát sau, Vương Thu Xá, người phủ đầy bụi bậm, xách ra cả một làn đồ vật toàn những của bỏ đi, cho chị tổ trưởng xem. Đó là một chiếc chăn trăm ngàn lỗ thủng, một chiếc áo bông nhàu nát bóng láng mồ hôi và ghét bẩn, một chiếc làn rách, một chiếc bát mẻ. Duy chỉ thiếu có chiếc gậy đánh chó, cái đó tìm đâu mà chẳng thấy.
Nữ tổ trưởng vô cùng phấn khởi, tán thưởng:
- A ha! Anh này giỏi! Có đủ mọi thứ mà chẳng mất một chút công phu nào!
Vương Thu Xá nhăn nhó, rồi đành nói thực:
- Có điều cần phải báo cáo với thượng cấp rằng, cái chăn bông, cái áo bông rách nát này, đều là những đồ cứu tế của chính phủ phát cho tôi, sau ngày giải phóng...
Nữ tổ trưởng nghiêm sắc, nghiêm giọng, phê bình, giáo dục ngay:
- Anh định giở cái trò cười gì ra đấy thế? Đây là một nhiệm vụ chính trị nghiêm túc! Còn dao động chao đảo cái gì nữa mới được chứ? Tôi đã đến xem qua các phòng triển lãm lớn ở Hoành Dương, Quảng Châu, rất nhiều thứ đặt trong những tủ kính to đùng, nhiều cái cũng chỉ là mô hình, phỏng chế cả thôi!
Chú thích:
(1) Ở trên tác giả viết là: cây quất (N.D.).