NGƯỜI QUẢ PHỤ TRẺ MĂNG -
HỒ NGỌC ÂM Ở LẠI TRONG NHÀ NGƯỜI ANH EM thúc bá có họ xa ở Tú Châu đã hai tháng, đợi khi trời quang mây tạnh, sẽ lại trở về thị trấn Phù Dung. “Tránh voi chẳng xấu mặt” đó là một biện pháp tiêu cực mà những người dân bình thường vẫn sử dụng để đối phó với một tai họa nào đấy. Nhưng lại cũng biết rằng “trăm đường tránh chẳng khỏi số”, bởi trên thế gian này có những tai họa không thể nào tránh khỏi! Nhất là ngày nay, đất nước đã thống nhất, ngũ hồ tứ hải đâu đâu cũng chỉ là một chính sách, dù rằng ở nơi xa xôi, ngàn dặm, vạn dặm, dù là chân trời góc bể, chỉ cần một cú điện thoại hoặc một bức điện báo, tức khắc anh bị áp giải trở về.
Hai tháng nay, Hồ Ngọc Ảm ngày nghĩ đêm lo cho cái số “số phận” ở thị trấn Phù Dung. Cô chỉ nhận được mỗi một bức thư của chồng. Trong thư bảo cô cứ yên tâm và cho biết rằng cuộc vận động ở thị trấn đang ầm ĩ, nhốn nháo lắm. Tất cả các phần tử loại 5 của toàn đội sản xuất đều phải tập trung ở thị trấn để nghe những lời dạy dỗ, giáo dục, khi đi biểu tình thị uy thì họ bị áp giải đi đầu ở đội ngũ. Tất cả các nhân vật đầu ngành ở thị trấn đều không thấy ai xuất đầu lộ diện, vì tất cả mọi công việc đều do tổ công tác nắm giữ. Trạm trưởng trạm thuế vụ xuất thân từ giai cấp quan liêu địa chủ đã bị lôi ra đấu tố. Dân quân đã đi lục soát, khám xét nhiều nhà nhiều hộ, con dao chọc tiết lợn của anh đã bị tịch thu giao nộp lên cấp trên. Tịch thu đi cũng phải thôi, vì đó là một thứ hung khí... Nghe nói trong cuộc vận động này, sẽ phân định lại thành phần giai cấp. Những dòng cuối của bức thư là bảo cô phải ở yên đó, không được mò về, và cũng không được viết thư trả lời.
Đấy thấy không, cái ông chồng đần thối đần thiu ra ấy, việc riêng trong nhà mình, ngoài cái con dao chọc tiết lợn ra, thì không hề được một lời nào khác, còn tất cả đều do Hồ Ngọc Âm tự đoán lấy mà thôi. Ví dụ như trong thư nói, các nhân vật đầu ngành ở thị trấn không thấy xuất đầu lộ diện, có phải là có ý nói đến ông chủ nhiệm Cốc và anh Mãn Canh hay không? Lục soát khám xét nhiều hộ nhiều nhà... là những hộ nào, nhà nào mới được chứ? Có phải là đã lục soát ngôi nhà mới nhà mình không? Sẽ quy định lại thành phần giai cấp mới, vậy nhà mình có thể bị gạt vào thành phần giai cấp nào? Rõ thật, chồng ơi là chồng, lúc nào cũng cứ vô tâm, ngốc nghếch như thế cả, đến một lá thư cũng không viết được cho nó rõ ràng rành mạch. Từ đó chồng cô không còn viết cho cô một lá thư nào nữa. Có phải là Quế Quế đã bị bắt rồi không? Hồ Ngọc Âm vừa nghĩ vừa đoán, và càng ngày càng thấy thấp thỏm, sợ hãi trong lòng. Cô như một con gà mái bị nhốt trong lồng khi nhà có khách đến chơi, dự cảm thấy đại họa đã đổ xuống đầu. Cái “đại họa” này sẽ như thế nào, cô chưa được nghe ai nói đến, và mắt cũng chưa từng trông thấy. Phải chăng sẽ là rác rưởi, là cặn bã như các phần tử loại 5, ăn mặc lôi thôi, lếch thếch, mặt mũi lúc nào cũng nhọ nhem như mặt quỷ, lũ trẻ con tiểu học hễ cứ gặp là lấy đá ném, lấy bùn quăng, mỗi khi ở chợ, ở thị trấn có phong trào vận động đấu tranh gì, lôi họ ra để giáo dục quần chúng, và tha hồ cho quần chúng cách mạng chửi bới, phỉ nhổ, đánh đập.
Trời đất ơi, nếu như cái “đại họa” này sẽ làm cho mình rơi vào cái vòng luân hồi của những con người ấy, làm sao mà sổng cho nổi! Không, nhất định là không. Bản thân mình có làm việc gì xấu đâu, cũng chưa nói một lời phản động nào, và cũng chẳng chống đối cán bộ bao giờ. Không những thế mình còn có cảm giác rằng anh Mãn Canh hay chủ nhiệm Cốc như người trong nhà, cứ như cha như anh vậy. Một người đàn bà bán canh bánh tráng ở chợ, liệu có thù hằn gì với xã hội mới. Xã hội mới đối với Hồ Ngọc Âm có chỗ nào là không tốt đâu! Sau giải phóng không còn trộm cắp lừa đảo nữa, những ông chồng cũng chẳng còn ai đánh bạc đánh bài, cũng chẳng còn ai hát cô đầu, lấy vợ hai, buổi tối có thể yên tâm lên giường đi ngủ, xã hội mới tốt đẹp biết bao nhiêu mà kể. Nếu không phải là xã hội mới, một con người như mình, một bộ mặt dễ coi như mình, đã sớm bị lừa gạt, bị chăn dắt trong những tổ quỷ ở vùng đất cửa con sông lớn kia rồi...! Không, không, những phần tử loại 5 kia mới là loại người xấu, họ là những người, tim đen, phổi đen, xương cốt đen, là những người cặn bã, rác rưởi, lẽ nào mình lại như họ được.
Khi cô đi sống nhờ, trong huyện thành Tú Châu cũng đang có tin đồn xôn xao rằng, đội công tác cũng sắp về đó, và một phong trào vận động như cải cách ruộng đất cũng sẽ được triển khai ở đây. Rõ ràng là đã có người đến hỏi người anh em thúc bá của cô rằng:
- Cái cô ấy là người từ đâu tới vậy? Gia đình thuộc thành phần giai cấp nào? Đã ở đây được bao nhiêu ngày rồi? Có giấy tờ chứng minh gì của công xã, của đại đội sản xuất không?
Cô cũng là người biết phải trái tiến lui, cũng là người biết điều này lẽ nọ, cô cũng lại là con người có lòng tự trọng, không thể mặt dày mặt dạn ở mãi trong nhà người anh em thúc bá như thế này được, có thể sẽ làm liên lụy tới người ta. “Cái tránh được, không phải là tai họa, mà đã là tai họa thì không tránh được”. Cô quyết định vi phạm lời khuyên của chồng, trở về thị trấn Phù Dung. Cũng thật là... Tại sao lúc đầu không nghĩ ra một điều rằng, càng những lúc như thế này, lại càng phải cùng kề vai sát cánh bên chồng! Dù rằng lưỡi tầm sét có bổ xuống đầu, cũng phải cùng chồng giơ đầu ra nhận lấy lưỡi tầm sét ấy! Hoặc như, dù có phải chui xuống mồ, cũng phải cùng chung một lỗ huyệt với chồng. Ngọc Âm ơi Ngọc Âm, mi hư đốn quá! Ròng rã hai tháng trời, đã bỏ mặc chồng ở một xó, không thèm nhòm ngó gì đến cả, mi quá nhẫn tâm đấy... Thôi... Nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên...
Trên đường, từ lúc mờ sáng cho đến khi tối sẫm, miệng cô luôn luôn lẩm bẩm “nhanh lên, nhanh lên”, nó như một nhịp trống, thúc giục lòng cô. Hành trang của cô chỉ có một chiếc túi dết màu cỏ úa, loại của cán bộ thường dùng đi công tác, đeo chéo ngang lưng, trong đó đựng mấy bộ quần áo thay đổi, cùng với một chiếc đèn pin. Trên dọc đường cô chỉ dừng lại ăn quà bánh cơm nước hai lần, một lần ăn đĩa cơm rang đập trứng, một lần lại ăn hai bát canh bánh tráng. Nước dùng chan canh hơi mặn, mà màu thì vàng đục. Không thể sánh với canh bánh tráng của cô bán được, nước dùng trong veo, mà ngọt đậm, dầu mỡ, gia vị cũng không đầy đủ bằng cô vẫn thường bốc cho khách của mình. Còn nhân viên phục vụ quấn cái tạp dề, bưng hàng cho khách, chẳng khác gì bưng đi bố thí cho người qua đường vậy. Hừ, cứ đến cửa hàng canh bánh tráng của mình mà xem,nào nói nào cười, nào thân mật chuyện trò, ăn no uống đủ rồi, buông bát đứng dậy, cũng còn được một câu chào: “Chị ơi, tôi đi đây, phiên sau lại đến!”, “Vâng, bác đi, nhưng đừng có lạc trên đường, đừng để cho bà xã ở nhà tựa cửa trông mong mỏi mắt đấy...”.
Khi trời sập tối, cũng là lúc Hồ Ngọc Âm đặt chân tới đầu thị trấn Phù Dung.
- Ai?
Đột nhiên từ trong bóng tối một góc tường có một người bước ra hỏi. Người ấy Hồ Ngọc Âm biết mặt, đó là cậu choai choai làm ở xưởng xay xát. Vốn là trước kia, Hồ Ngọc Âm, mỗi khi đến xưởng xay xát mua đầu mày tấm gãy, cậu choai choai này, người lúc nào cũng bạc phơ bụi cám, vẫn thường quấn riết lấy chị mà nài nỉ: “Bà chị, bà giới thiệu cho thằng em một cô đi. Sống độc thân khổ lắm bà chị ơi!” “Thế định loại người như thế nào?” “Cần trắng đẹp, xinh xẻo, mắt to, mày rậm, y như bà chị ấy!”, “Hứ, đồ mất nết, chị làm mối cho cậu cái con mặt choắt, tứ túc mai hoa!” (1), “Nhưng em lại chỉ thích cái eo lưng rắn nước, cùng cái bộ ngực nhọn hoắt của chị thôi!”, “Có xê ra không nào! Ai thèm nhăng nhít với cái thứ cậu... Tao mà mời chủ nhiệm Cốc của cậu ra thì chớ chết!”, “Bà chị ơi, sao bà chị nhẫn tâm thế!”, “Cút, cút, bố mẹ mày chết sớm, không có người dạy phải không?”.
Đúng rồi, cuộc vận động chắc là đang triển khai, cho nên gió bão ở thị trấn chưa qua khỏi được, vì thế mà buổi tối phải có người canh gác. Đến nay cả cái loại oắt con xỉ mũi không sạch này, bây giờ cũng ra dáng lắm lại còn đeo cả súng sính nữa.
- Ồ! Chị đấy à, chị đã tự trở về đấy à?
Thằng oắt ở xưởng xay xát cũng đã nhận ra cô, nhưng giọng điệu vừa lạnh lùng vừa cứng rắn, nó giống như một tiếng roi quất vào trong không khí tối đen. Sau đó thằng oắt không thèm nói gì với cô nữa, nó khoác súng đứng sang một bên. Nếu như là lúc bình thường, nó đã bắt đầu tán dóc láo lếu, thậm chí đã quờ quạng chân tay rồi cũng nên.
Cô bỗng thấy giật mình: “Chị đã tự trở về” là cái gì nhỉ? Lẽ nào, nếu cô không tự trở về, sẽ cho người đi bắt về sao? Hình như cô đã vùng chạy vút vào trong phố Đá Xanh. Trên những tấm gỗ của những cửa hàng hai bên mặt phố, viết đầy, dán đầy, những khẩu hiệu thật to. Những khẩu hiệu đó viết những gì, cô nhìn không rõ lắm. Cô đã vấp vào mép bậc đá ở ngay trước cửa hàng cũ của cô, suýt ngã. Trên cửa vẫn là chiếc khóa đồng cũ, chồng cô không có nhà. Nhưng chiếc khóa đồng vẫn rất thân thuộc, đó là ổ khóa từ khi cha mẹ cô mở nhà trọ còn để lại. Cô buông ra một hơi thở khe khẽ. Còn cái ngôi nhà lầu bên cạnh của cô ra sao đây? Cánh cửa ngôi nhà lầu sao dán toàn giấy trắng? Lại có cả hai tờ dán chéo lên nhau. Như thế có nghĩa là ngôi nhà lầu không những đã bị khám xét, mà còn bị niêm phong nữa. Trời đất ơi, thế này là thế nào? Cô luống cuống rút chiếc đèn pin từ trong túi ra, chiếu soi trên cánh cửa ra vào sơn màu đỏ. Trên cánh cửa, đóng ngang một thanh gỗ nền trắng chữ đen: “Nhà triển lãm hiện vật cuộc đấu tranh giai cấp ởthị trấn Phù Dung”. Sao? Ngôi nhà lầu mới của mình đã bị nhà nước trưng dụng làm phòng triển lãm rồi sao? Vậy mà trong thư của Quế Quế không có một chữ nào nhắc tới chuyện này cả. Thật đúng là ông chồng đần của tôi, anh Quế Quế ơi, anh Quế Quế ạ! Giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà không biết biến đi đâu mất tăm mất dạng? Anh bỏ đi đâu, vợ anh đã về đây, mà sao anh không ra đón, mà sao cửa đóng then cài thế này?
Nhưng cô lập tức hiểu ngay ra rằng, tìm Quế Quế bây giờ cũng chẳng được ích gì, cái anh chồng chết rấp này, đến đánh cái rắm, cũng không đánh cho ra hồn. Cô kịp thời quyết định là trước hết phải đi tìm chủ nhiệm Cốc Yến Sơn. Ông Cốc là cán bộ Nam tiến, vốn là người trung hậu, làm việc công tâm lại hay giúp đỡ mọi người. Ở thị trấn này chỉ có ông là người cách mạng tiền bối, có uy tín lớn, lời nói bao giò cũng đầy sức nặng...
Cô có cảm giác rằng, cô đi trên đường phố Đá Xanh mà không phát ra một tiếng động nào, chân cô như lướt đi nhè nhẹ, người cô nhiều lúc hình như bốc lên khỏi mặt đất, bay đi. Cô đi tới cửa lớn của cửa hàng lương thực thị trấn, cửa lớn đã đóng, nhưng một cánh cửa nhỏ hãy còn mở. Ông lão gác cửa đã nhận ra cô, ông bất chợt lùi lại một bước, như người gặp ma... Thế này là thế nào đây? Trước kia những người trên phố, nhất là những người đàn ông, thấy mình bao giờ cũng mắt la mày lém, cười tít mắt, và có vẻ tiếc rằng, đôi mắt không được dán chặt lên người mình.
Dù rằng ông lão gác cửa đã coi mình như ma chứ chẳng coi mình là người nữa, nhưng dầu sao cô cũng cần tìm cho được chủ nhiệm Cốc:
- Bác ơi! Bác cho hỏi ông chủ nhiệm Cốc có ở đây không ạ?
- Này cô con gái nhà họ Hồ ơi! Cô lại còn đến đây để tìm ông Cốc sao?
Ông già gác cửa ngoảnh đầu lại, nhìn nhìn vào bên trong những bức tường rào, rồi lại ngó đầu ra nhìn theo dọc phố, thấy không có ai, ông mới hạ thấp giọng thì thào nói:
- Cô không nên tìm ông Cốc làm gì nữa. Ông ấy đang bị sa vào một vụ án lớn lắm, mà trong đó có cả cô đấy. Họ bảo rằng ông ấy đã bán trộm hơn một vạn cân gạo trong kho nhà nước, để phát triển chủ nghĩa tư bản... Ông ấy đã bị người canh gác suốt ngày đêm từ lâu rồi, muốn tự tử mà cũng không sao tìm ra được một sợi dải rút... Thật đáng thương cho con người ấy...
Lòng dạ Hồ Ngọc Âm như thắt lại... Trời ơi, ông Cốc, ông Cốc mà cũng bị người ta canh gác rồi ư? Điểu ấy làm sao cô có thể tưởng tượng ra được. Trong lòng trong dạ cô, ở thị trấn này, ông Cốc là đại diện cho xã hội mới, đại diện cho chính phủ, đại diện cho Đảng... Thế mà nay, ông đã bị người ta canh gác rồi. Cái ông già tốt bụng ấy có làm gì nên tội? Cái đất nước này, cái giời đất này là do chính những người như ông ấy đổ mồ hôi sôi nước mắt giành lại được, lẽ nào ông lại phản lại cái đất nước này?
Hồ Ngọc Âm quay trở về phố Đá Xanh. Cô ngẩng đầu nhìn lên tầng hai, nơi đầu cùng phía tây, là phòng ông Cốc ở, vẫn thấy còn đèn sáng. Mắt cô nhìn lên đó chăm chăm, không chớp. Ông Cốc đang ngồi viết kiểm thảo dưới đèn hay đang nghĩ cách lừa cho được mấy đứa gác ông, tìm đường tự vẫn? Không! Không thể như thế được, ông Cốc ơi! Ông phải nghĩ rộng ra mới được, nhất định là có người làm sai rồi, làm phản rồi. Người ta không thể vu cáo cho ông, những người ở thị trấn Phù Dung sẽ viết giấy, sẽ làm đơn lên huyện, lên tỉnh bảo lãnh cho ông, ông hết lòng vi mọi người, điều ấy người lớn, trẻ con, có ai là không biết, ông chỉ có làm việc tốt mà chưa làm việc gì xấu bao giờ. Trong giây phút, Hồ Ngọc Âm đã quên mất tai họa của mình, cũng như sự khiếp hãi của mình, mà lại đi bất bình thay cho cảnh ngộ của ông Cốc.
À à... Nghĩ ra rồi, hơn ba tháng trước đây, nữ tổ trưởng tổ công tác Lý Quốc Hương đã đến ngôi nhà lầu mới của cô, đã ngồi trong gian phòng được bày biện toàn đồ gỗ mới, đã tính toán nợ nần với cô, đã nói hai năm linh chín tháng, tiền bán canh bánh tráng là hơn sáu nghìn đồng bạc, và cũng đã nhắc đến người cung cấp cho cô hơn một vạn cân gạo làm nguyên liệu... Thì ra, nay ông Cốc bị canh gác, chắc chắn là từ chuyện này mà ra... À, à, người này phạm pháp mà người kia phải chịu tội, canh bánh tráng là do mình bán, tiền hàng cũng là do mình nhặt, làm sao lại đổ tội lên đầu ông Cốc được? Tiền lời lãi của canh bánh tráng, vẫn còn có một khoản, gửi trong tay anh Mãn Canh.
Đi tìm anh Mãn Canh. Có lẽ bây giờ anh Mãn Canh vẫn là người trông nom mọi việc trong thị trấn. Anh Mãn Canh đã từng nhận mình là em gái nuôi. Thế là Hồ Ngọc Âm vẫn còn chỗ dựa, trong thị trấn vẫn còn một con người tìm gặp được. Anh Mãn Canh còn thân thiết hơn cả anh em máu mủ ruột rà của mình... Hồ Ngọc Âm quay người bước đi. Cô đi. Nhưng đâu phải là cô đi, mà là cô lao, cô chạy. Đầu óc cô rối loạn nhưng vẫn còn có đôi chút tỉnh táo. Dưới chân cô nhẹ như bay, lướt đi không hề có một tiếng động, toàn thể con người cô như bốc khỏi mặt đất, bay đi... Ôi, ôi, anh Mãn Canh, ngày ấy anh chẳng lấy được em... vì anh là người trong Đảng, không được lấy một đứa con gái như em... Nhưng ở trên tảng đá, nơi bến đò bò sông, anh đã từng ôm em, đã từng hôn em. Anh ôm em chặt thế cơ mà, ôm chặt đến nỗi đau hết cả xương cốt em. Anh đã từng thề rằng, trong cuộc đời này, trên thế gian này, anh sẽ giúp đỡ em, sẽ che chở cho em... Anh Mãn Canh ơi, anh Mãn Canh, bến đò nơi bờ sông ấy, vẫn còn nguyên đó, và tảng đá ấy cũng vẫn còn đây. Bây giờ anh còn giúp đỡ em không, còn che chỏ cho em không?... Anh Mãn Canh, anh Mãn Canh ơi, anh phải cứu lấy đứa em gái của anh, hãy cứu lấy tôi.
Cô không còn nhớ được cô đã qua sông như thế nào, không còn nhớ được cô đã bò lên dốc ra sao... Cô đập cửa nhà bí thư Mãn Canh thình thình. Cái cửa này cô ra vào rất ít, nhưng cô thân thiết với nó, thuộc nó. Có những nơi, người ta chỉ đi qua có một lần, mà nhớ mãi, nhớ trong suốt cả cuộc đời.
Ra mở cửa là “Ớt phật thủ”, người vợ to lớn đẫy đà của anh Mãn Canh. “Ớt phật thủ” trông thấy cô, giật mình, sợ hãi bước lùi lại, y như là gặp ma. Trước đây, các cô gái, các bà nạ dòng, gặp cô, bao giờ cũng muốn ngắm nhìn thêm một tý, vừa hâm mộ, vừa phát ghen. Đàn bà thường là hay ghen ghét, đố kỵ. Vậy mà hôm nay, tại sao thế nhỉ, tất cả đàn ông, người già người trẻ trong thị trấn gặp cô mà cứ ngỡ như gặp ma, gặp quỷ, như gặp những đồ xúi quẩy vậy.
Hồ Ngọc Âm hỏi:
- Anh Mãn Canh có nhà không?
Cô bất chấp bộ mặt của vợ anh Mãn Canh như thế nào, cô cần phải gặp một con người đã từng yêu cô, đã từng thề bồi với cô.
- Tôi đề nghị chị đừng bao giờ đến tìm anh ấy nữa! Chỉ một suýt nữa thôi là chị đã hại anh ấy, và cũng chỉ một suýt nữa thôi là anh ấy đã hại cả nhà, hại tất tật lũ mẹ con tôi... Bây giờ cấp trên đã đưa anh ấy lên huyện để anh ấy học tập, kiểm điểm và phản tỉnh..., anh ấy đã đeo chăn màn đi rồi. Xin nói cho chị biết, số tiền một nghìn năm trăm đồng chị nhờ anh ấy giấu hộ, đã bị người ta phát giác, anh ấy đã đem nộp cho tổ công tác của huyện ủy rồi...
- Ôi, ôi, người đàn ông, thằng đàn ông... Trời đất ơi... người đàn ông, kẻ làm chồng bất nhân, bất nghĩa...
Như một tiếng sét đánh ngang mặt, nó làm cho tai Hồ Ngọc Âm điếc đặc lại, làm cho đầu óc cô mụ mị đi. Người cô choáng váng, loạng choạng, đứng không vững nữa.
- Chồng? Chồng chị thật là một người to gan. Dám nói ra miệng rằng sẽ ám sát nữ tổ trưởng tổ công tác, bây giờ thì ra ở ngoài nghĩa địa ấy!
Nói xong, “Ớt phật thủ” như đuổi kẻ ăn mày, đóng sầm ngay cửa lại. Cánh cửa nhà chị vừa dầy và nặng!
Hồ Ngọc Âm như sắp ngã vật ra... ngã vật ra... Không! Đừng ngã, nếu có ngã cũng không thể ngã ở cửa nhà người ta được! Chính bản thân cô cũng thấy kinh ngạc, vì không biết từ đâu, một nguồn sức mạnh đã đến với cô, chân cô nhẹ như bay, và chân cô lại bước đi, dưới chân không hề có một tiếng động, và cả con người cô cứ như bay lên, bay lên...
Anh Quế Quế, anh ở đâu? Vừa rồi “Ớt phật thủ” bảo rằng anh định ám sát nữ tổ trưởng tổ công tác, không phải... không phải chứ anh? Anh nhát gan thế cơ mà, đi đường thấy một con chó xù, gặp một con trâu sừng cong, anh đều sợ, đều phải né tránh nó cơ mà... Không thể, không thể. Anh Quế Quế ơi, dưới vòm trời, anh là người thân thích cuối cùng của em... Thế mà anh chẳng ở cửa hàng để chờ em, mà anh lại đi lấy ổ khóa đồng khóa lại. Anh ra nghĩa địa để làm gì? Làm gì... hả đồ ngốc, từ trước tới nay, nơi ấy, nơi ấy là nơi chôn người chết của thị trấn, đến ngay giữa ban ngày ban mặt còn chẳng có ai dám đến đây, vậy mà trong lúc trời tối đen tối mò như thế, anh lần ra đấy để làm gì? Anh vốn nhát gan, làm sao anh dám đi đến nơi mộ địa, tha ma ấy?
Cô mê muội đi... nhưng vẫn còn có một tia sáng như tia chớp, rọi chiếu vào đầu óc đang cuồn cuộn trong lớp sóng đen của cô... À à, anh Quế Quế, anh Quế Quế thân yêu ơi, lẽ nào, lẽ nào anh... Anh Quế Quế, anh Quế Quế ơi, anh không thể... không thể! Anh còn đang đợi em trở về để gặp nhau một lần nữa cơ mà...
Cô cất tiếng gọi to, cô chạy trên mặt đường đầy những ổ bùn, vũng nước, chạy như bay, vậy mà vẫn không vấp ngã... Trông kìa, lại còn khóc, lại còn gào, lại còn cuống cuồng lên... Anh Quế Quế ơi, em đã về đây này, về đây, về đây này... Vâng Quế Quế! Anh Quế Quế, anh Quế Quế ơi...
Khi Quế Quế hai mươi hai tuổi, thì Hồ Ngọc Âm tròn mười tám. Do một người già làm nghề giết mổ làm mối. Lần đầu tiên khi Quế Quế chạm mặt mình, anh cao cao, gầy gầy, xinh xẻo, mặt lúc nào cũng đỏ như trôn con khỉ, và chỉ rập rình định trốn vào sau cánh cửa... Cha mẹ nói, thế là tốt rồi, anh đồ tể, lấy nghề sát sinh làm nghiệp... Lúc mới đầu, mình cũng thật là ngốc, trong bụng lúc nào cũng chỉ mang Quế Quế ra so sánh với anh Mãn Canh, và lần nào Quế Quế cũng bị thua. Ngọc Âm cứ nghĩ tới chuyện ấy là tức tối, đau lòng, khó chịu, nên chẳng thèm ngó ngàng gì tới Quế Quế cả. Gặp mặt là cúi đầu, dẩu mỏ, trong bụng thầm rủa người ta là “đồ mặt dầy”. Nhưng Quế Quế là một con người thực bụng, không nói không rằng, ngày ngày đến cửa hàng, nào gánh nước, nào chẻ củi, nào quét nhà, lên mái nhà, lật ngói, dọi chỗ dột, xuống sông Phù Dung giặt giũ chăn chiếu, màn mùng của nhà trọ. Hôm nào cũng đến làm giúp, vừa nhanh vừa gọn gàng, làm xong là biến mất. Cha mẹ thấy thế cũng nể, giữ lại ăn cơm, anh không chịu, đến nước cũng không uống... Thế là hàng xóm láng giềng đồn ầm ĩ lên: Chủ nhà trọ Hồ Ký đi tu đâu từ kiếp trước, nên đã vớ không được một thằng rể chịu khó lam làm. Lại bảo rằng, con bé Ngọc Âm cũng thật tốt phúc, câu được một anh chồng quý đến nhà, rồi ra, mọi việc trong nhà con bé sẽ chẳng phải dúng tay vào đâu, cứ gọi là ngồi duỗi mà ăn... Quái lạ, Ngọc Âm càng không thấy thích thú cái anh chàng ấy, thì cha mẹ và láng giềng lại càng ca ngợi anh chàng, càng thương mến anh chàng. Còn anh chàng hình như cũng muốn khoe sức mình, để cho Ngọc Âm thấy thì phải. Về sau, cái anh chàng chăm chỉ lam làm không muốn ngơi tay ngơi chân một lúc, đã lấy trộm cả quần áo, giầy tất của Ngọc Âm đem đi giặt, ừ, thích giặt, cho giặt, giặt cả đời, Ngọc Âm cứ giả vờ như không biết, không nhìn thấy...
Cô và Lê Quế Quế không chiến cũng không hòa, kéo dài có đến hàng nửa năm trời. Thế rồi, dần dà, bất chợt như có ma ám, Hồ Ngọc Âm bỗng thấy Lê Quế Quế đẹp trai, ưa nhìn, tính nết hiền lành, nhã nhặn, hiểu biết. Nhìn cũng thấy thuận mắt, thuận lòng. Ở lâu mới biết lòng người mà! Thế rồi có một hôm ngẫu nhiên Lê Quế Quế không đến nhà trọ Hồ Ký, Ngọc Âm ngồi đứng không yên, chín mười lần bước ra ngoài cửa ngóng nhìn... làm cho cha mẹ rất mừng, còn hàng xóm láng giềng đều liếc mắt mỉm cười. Cười gì? Trong lòng Ngọc Âm, Lê Quế Quế đã sánh ngang được với anh Mãn Canh... Hơn thế, anh Mãn Canh đã thành gia thất rồi, anh đã lấy một người vợ cao lớn đẫy đà như anh, táo tợn có thể đánh chết hổ được. Tại sao Quế Quế lại hơn anh? Bởi vì Quế Quế mới là của mình, là chồng mình, là ông xã của mình... Vả lại Quế Quế có chỗ nào không hay đâu. Anh nhanh chân nhanh tay, điềm đạm ít nói, một tiếng hừ cũng không có. Đám cưới của cô và Quế Quế thật nhộn nhịp tưng bừng, và cũng thật là vinh dự, các cô ở đoàn ca múa của huyện đẹp cứ như một bầy tiên nữ đến hát xướng, đến phù dâu, hát trọn một đêm ởsàn hát. Mãi về sau này, các cô các bà ở thị trấn vẫn còn bảo rằng: Chu vi của thị trấn Phù Dung có tới hàng trăm dặm, những nhà giàu nứt đố đổ vách khi làm đám cưới cho con gái, đâu có được vui, được tưng bừng nhộn nhịp như đám của Ngọc Âm với Quế Quế...
Gió ào ào, cỏ rạp sang hai bên, cây cối ngả nghiêng, Ngọc Âm vẫn cắm đầu cắm cổ chạy...
Lê Quế Quế đang ở bên cô, bầu bạn với cô, trò chuyện với cô:
- Anh Quế Quế, anh còn nhớ không, cái tối hôm cưới nhau ấy, những cô gái đẹp như tiên của đoàn ca múa, đẩy hai đứa mình vào nhập phòng, rồi kéo nhau đi. Cả hai đứa mình đều đã mệt nhoài. Hát suốt cả một đêm mệt quá đi chứ. Anh thật là ngốc, mặt mũi đỏ tưng bừng, lại còn cúi đầu xuống nữa chứ, đến nhìn em một cái mà cũng chẳng dám nhìn. Anh lên giường để nguyên quần áo không dám cởi. Em vừa tức vừa buồn cười. Anh nhút nhát như thế, cứ y chính anh là cô dâu vậy. Anh tưởng em không nhút nhát hay sao? Thế mà anh còn nhút nhát hơn em. Em bỗng đột nhiên cảm thấy rằng, anh chẳng phải là chồng em, mà là em trai em thì phải. (Ôi chao, cái lúc ấy, chỉ nhắc tới chữ “chồng”, tim đã đập, mặt đã đỏ lên rồi). Em nghĩ, tính nết anh như thế chắc về sau này anh sẽ chẳng mắng mỏ em đâu, sẽ không hung dữ và đánh đập em đâu, có khi lại còn nhường nhịn em ấy chứ... Cái đêm hôm ấy, cả hai đứa đều để nguyên cả quần áo mà ngủ, chẳng ai đụng chạm tới ai. Nghĩ lại thật tức cười. Sáng sớm ngày hôm sau, trời chưa sáng anh đã vùng dậy, anh đi gánh nước, thổi cơm, rồi dọn dẹp trong phòng, ngoài cửa, nơi nhộn nhịp suốt cả đêm hôm qua, sạch sẽ đến mức không còn một cái vỏhạt dưa, một cái vỏ củ lạc. Vậy mà em chẳng biết gì. Em ngủ muộn, em dậy trưa. Anh Quế Quế ơi, em vẫn còn là con gái, vẫn còn muốn làm nũng. Trước kia, làm nũng cha mẹ, từ nay về sau, em làm nũng anh...
- Đúng thế, anh Quế Quế ơi, đúng là em đã nghĩ rằng: em sẽ làm nũng anh. Nhưng người anh ngốc nghếch của em ơi, làm một chàng rể mới, mà lại còn ngượng ngùng hơn em. Anh còn nhớ không, tối hôm thứ hai khi làm lễ cưới, có một đội phim đèn chiếu ở thị trấn. Khi ấy thị trấn ta còn chưa có chiếu bóng, nhưng mỗi tháng lại được xem một lần phim đèn chiếu. Đúng thế không anh? Trước giải phóng, thị trấn ta chỉ diễn rối bìa, rối giấy, và hát hoa đăng. Em vẫn còn nhớ, bộ phim đèn chiếu hôm ấy có tên là “Chú Hai Đen lấy vợ”, đôi nam nữ trong bộ phim ấy trông thật tươi tắn, đẹp đôi. Họ tự do tìm hiểu, hẹn gặp gỡ nhau vào buổi tối ở trong rừng, thế mà bị kẻ xấu trong ủy ban xã bắt trói đem giải lên ủy ban khu. Đứng xem phim mà người em cứ tựa sát vào người anh. Anh thấy không, như thế mới thật là phong kiến, cha mẹ xếp đặt, bà mai mối manh, và cán bộ xã thì tùy tiện trói người. May mà mình được sống trong cái xã hội mới tốt đẹp, không còn phong kiến nữa, con trai con gái ngồi lẫn lộn với nhau, chẳng bị ai bắt trói. Hôm ấy ở bãi chiếu phim, trời tối lắm, trên trời không có lấy một vì sao. Em nhớ rằng cứ đứng xem, rồi anh choàng tay ôm lấy eo lưng em... Rồi anh vội rụt tay về như mó phải lửa, nhưng em đã tóm được, em phát nhẹ vào tay anh một cái. Ôm eo thì cứ ôm eo, có làm sao cả đâu, em là vợ anh kia mà, còn anh là chồng em, đâu phải thằng cha căng chú kiết nào... và anh cũng chẳng chịu rời em ra nữa.
- Anh Quế Quế ơi! Mình chung sống với nhau, việc nào cũng hợp với nhau. Bởi vì việc gì anh cũng nghe em, chiều em. Anh lại còn bảo em là bộ tư lệnh của anh, là nữ hoàng thượng của anh. Anh cứ hay ví von theo kiểu ngốc nghếch như thế, đúng không? Xem được vở tuồng mối, tuồng cũ, anh cứ ví von liên hệ như thế. Em đối xử với anh cũng tốt chứ, chưa bao giờ cáu gắt với anh. Những năm ấy vợ chồng mình chưa bao giờ to tiếng với nhau... Nhưng chúng mình cũng có nỗi khổ tâm riêng. Lấy nhau sáu, bảy năm giời mà chưa có được một mụn con... Anh Quế Quế ơi! Vợ chồng thèm muốn một mụn con biết bao nhiêu! Chưa có con vợ chồng càng yêu càng thương nhau hơn nhưng vẫn thấy thiếu thốn, chông chênh, và cảm thấy sự dài lâu như bị ngắn bớt đi. Đứa trẻ mới là cái quả trên cây của vợ chồng mình, là khúc ruột cắt tự trong lòng mình ra. Đứa trẻ mới có thể làm cho vợ chồng mình đời đời kiếp kiếp được bên nhau, không bao giò tách rời ra được... Cũng chính vì đó, mà em thường vụng trộm khóc thầm, và anh cũng thường giấu em mà thở dài than vắn. Cái tâm tình ấy cả hai người đều biết, nhưng lại phải giả vờ là không biết tí gì... Và cũng chính vì việc ấy, mà vợ chồng mình cũng đã có đôi câu, đôi tiếng, nhẹ nhàng cằn nhằn nhau, những người hàng xóm sát vách chang bao giờ nghe thấy cả. Thực ra anh cũng chẳng trách móc gì em, mà là em tự mình trách mình... Về sau, em đâm ra cũng có đôi điều mê tín. Em nghĩ, có lẽ do cả hai đứa ngốc chúng mình đã ríu rít, sum vầy, đã yêu thương nhau quá đáng, nên đứt mất đường “con cái”. Đáng lẽ ra chúng ta phải giống như gia đình khác, chửi bới, nhiếc móc lẫn nhau... Ôi, ôi, anh Quế Quế ơi, anh Quế Quế ơi, sao anh chẳng chịu nói năng gì thế? Làm sao anh lại cau mày lại thế? Có phải là anh đang trách em không nên bán canh bánh tráng, không nên xây dựng mái nhà lầu tai vạ ấy không? Vì chuyện đó mà vợ chồng đã điều đi tiếng lại với nhau, mà em đã dùng đầu đũa chọc anh một cái, chỉ vì anh muốn đem bán rẻ nó đi...
Hồ Ngọc Âm lao đi trong đêm tôi. Tâm trí cô hoảng loạn, tình cảm rối bời. Mặt đất u ám, mịt mờ, cô cũng mịt mờ, u ám. Cô không nhớ được rằng trên đường trở về cô có ngồi đò hay không, ai chở đò cho cô. Cô chạy và chạy. Cứ như cô đang truy đuổi một người nào đó phía trước. Còn người ở phía trước chạy rất nhanh, Lê Quế Quế chạy rất nhanh, và cô truy đuổi không bao giờ bắt kịp người ấy. Cô gào lên:
- Anh Quế! Sao anh tàn nhẫn thế? Anh chờ em với! Chờ em với chứ! Em còn có chuyện muốn nói với anh. Những điều em muốn nói với anh, em mới chỉ nói được có non nửa thôi. Chuyện quan trọng nhất em vẫn chưa bàn bạc với anh được một lời nào...
Phía sau cô hình như cũng có một người nào đó đang truy đuổi cô, tiếng bước chân kêu thình thịch, không rõ đấy là người hay là ma. Không quay đầu lại nhìn, việc quan trọng hơn cô cần phải đuổi kịp chồng cô. Nghe người ta nói rằng, ma chạy trên đường không bao giờ phát ra tiếng động, thế thì đấy có lẽ là người. Họ truy đuổi cô để làm gì nhỉ? Cô chẳng còn có một chút gì hết, chẳng có gì hết! Chỉ còn lại một mảnh hồn, chẳng lẽ không tha cho cả mảnh hồn ấy hay sao mà còn đem ra đấu, đem ra tố, đem ra chăng trói? Tôi cần phải sống cùng với Quế Quế, cùng với Quế Quế... Nếu như các người có bắt được tôi, trói ghì cả chân lẫn tay của tôi lại, tôi sẽ lấy răng mà cắn lưỡi cho đứt, cả thừng, lẫn chão...
Cuối cùng cô cũng đã bỏ lên được khu nghĩa địa. Người ta bảo rằng, nơi đây là thế giới của ma quỷ, vậy mà cô chẳng sợ chút nào. Từ xưa tới nay, các thế hệ con cái, cháu chắt, đã chôn xuống nơi đây hàng ngàn ngôi mộ. Ma quỷ, oan hồn, người chết già, kẻ chết non, kẻ ác, người thiện, đàn ông, đàn bà, người được lên thiên đàng, kẻ phải xuống địa ngục đều tìm ra được ở đây một thế đất quý giá theo phong thủy, đều tìm được ở đây niềm an ủi ba thước sâu hoàng thổ.
- Anh Quế Quế ơi! Anh ở đâu? Anh... ở... đâu...
Trời đen thăm thẳm, giơ bàn tay ra không nhìn thấy ngón. Hàng nghìn nấm đất sè sè, không thể phân biệt được đâu là mả mới, đâu là mả cũ.
- Quế... Quế! Anh ở đâu? Anh trả lời em đi chứ! Vợ anh đến tìm anh đây...
Hồ Ngọc Âm thê thảm réo gọi, thanh âm của cô kéo dài, cao vút và hoắt nhọn. Cái thanh âm đó làm cho tất cả những lời kêu gọi trên thế giới này nhòa nhạt hẳn đi. Và nó giống như ánh lửa ma trơi, xanh lè trong đêm tối, bập bùng nhảy múa trên những nấm mồ hoang, bãi vắng... Hồ Ngọc Âm chân cao, chân thấp, tậm toại luồn lách giữa nơi tha ma mộ địa. Trên suốt dọc đường cô không bị vấp ngã một lần nào, nhưng ở đây cô lại bị vấp ngã liên hồi. Vấp ngã vào khe những nấm mồ, không sao bò dậy được, hình như cô sẽ phải vĩnh viễn nằm lại giữa nơi tha mô mộ địa này...
- Cô Phù Dung, cô đừng có réo gọi nữa, cũng chẳng nên tìm kiếm, nữa, người anh em Quế Quế, không còn trả lời cô được đâu!
Không biết mất bao lâu, mới có người lôi cô từ khe những nấm mồ dậy.
- Anh là ai? Anh là ai?
- Tôi là ai... mà cô không nghe ra à?
- Anh là người hay là ma vậy?
- Tôi biết nói thế nào bây giờ nhỉ? Cũng có lúc là người, cũng có lúc là ma!
- Anh... anh là...
- Là Tần Thư Điền, là Tần Rồ ấy mà!
- Anh là phần tử loại 5! Cút ngay đi! Đừng có mó vào tôi, cút ngay đi!
- Tôi muốn giúp cô, mà không mang theo một tý tỵ ý đồ xấu xa nào... Cô Phù Dung, tôi ngàn lần vạn lần xin cô nghĩ lại đi, cô phải biết thương tiếc lấy thân mình, ngày tháng còn dài lắm...
- Tôi không cần cái thứ anh chạy tới tận đây mà thương xót tôi. Trời u đất ám, anh là phần tử xấu, là phái hữu...
- Này, chị ạ... Lê Quế Quế bị quy thành phú nông mới và chị sẽ là...
- Anh bịa đặt! Ai là phú nông mới?
- Tôi không nói dối chị đâu...
- Ha ha ha! Tôi là bà phú nông! Bà phú nông bán canh bánh tráng! Anh là quân đểu cáng, anh dọa tôi, dọa tôi?
- Tôi không doạ cô đâu, điều tôi nói là sự thật, chắc như đanh đóng cột ấy, không sai một tý nào hết.
- Không sai?
- Rùa rùa không cười ba ba, đều là cảnh sống trong bùn với nhau cả. Cũng cùng một con đường hoạn nạn, oan nghiệt như nhau cả thôi mà.
- Giời vật anh đi... Bà phú nông... Cái nhà anh Tần kia, tất cả đều do anh mà ra, đều là do anh cả! Cái tối hôm chúng tôi cưới nhau ấy, anh cùng với cả đám yêu tinh thần nữ của anh đến để chống phong kiến, ngồi hát ở sàn hát mừng... làm hại cả đời tôi, hát mừng gì, có hát tai hại, hát chết người thì có... Hu hu hu... Sao anh lại khốn khổ mà đi sưu tầm những bài hát ấy? Khốn khổ mà đi chống phong kiến làm gì? Anh đã hại cả một đời anh còn chưa đủ hay sao, mà anh còn đi hại Quế Quế, hại cả tôi...?
Tần Rồ đúng là một thằng rồ, anh ngồi trên một nấm mồ, giữa bãi tha ma mà hát lên một khúc, trong cái ngọn cỏ độc mang tên “Sàn ca nữ” anh đã cải biên năm đó:
Cây nến cháy, lửa xanh, lửa đỏ,
Chân nến kia, lệ nhỏ lâm ly.
Lệ khô, khi tắt nến đi,
Cô em khóc lóc, giọng kia đã khàn.
Cây nến cháy, lửa vàng, lửa đỏ,
Ngồi cùng em, hát đỡ đôi câu.
Tình đau, khúc hát củng rầu
Kim đâm vào mắt, lệ đau chảy tràn...
Chú thích:
(1) Ý nói con chó. (Nguyên chú).