Chương III CHỖ SÂU TRONG NGÕ HẺM (Năm 1969) TỤC XẤU TRONG GIÓ MỚI-
SAU KHI PHONG TRÀO “BỐN THANH TRA” KẾT THÚC, thị trấn Phù Dung từ chỗ là “Cái hang tối của chủ nghĩa tư bản” trở thành “Cái lô cốt chiến đấu của chủ nghĩa xã hội”. Sự biến hóa sâu sắc được chiềng ra trên mặt phố Đá Xanh chật hẹp. Tất cả các cửa hàng gỗ hai bên đường phố, trước đây chỉ có một màu đen xỉn, nay đã được quét nước vôi trắng từ mặt đất lên cao hai mét, và viền quanh bằng một đường sơn đỏ. Cứ cách hai cửa hàng lại có một khẩu hiệu viết theo kiểu chữ đời Tống như: “Vô sản nổi dậy diệt tư bản”, “Nông nghiệp học tập Đại Trại”, “Bảo vệ thành quả của BỐN THANH TRA”, “Cách mạng phải liều mạng, liều mạng làm cách mạng”. Đầu phố, cuối phố còn thêm những “muôn năm”, xa gần hưởng ứng lẫn nhau. Trên cánh cửa mỗi nhà, đều có dán một câu đối cùng một quy cách, cùng một kiểu chữ: “Đi theo con đường Đại Trại”, và “Học cờ hồng Đại Trại”. Cho nên cái phố Đá Xanh trở thành một phố khẩu hiệu, một phố câu đối nền trắng chữ đỏ, khiến cho nhà nào cũng giống nhà nào. Biến một cái phố trước đây, vào những ngày nắng ráo, đầy những chiếc sào tre thò ra trên tầng cao mặt phố, phơi phóng mùng màn, chăn đệm cùng quần áo xanh xanh đỏ đỏ, phấp phới như cờ vạn quốc, thì nay đã bị thủ tiêu và cấm chỉ, để thu dọn chỉnh trang lại bộ mặt đường phố, và cũng có thể coi như một nét mới của thị trấn. Vào những ngày lễ ngày tết, hoặc có cấp trên đến thị sát, hoặc các xã, các đội sản xuất anh em, đến thỉnh kinh học tập, mỗi nhà lấy lá cờ màu đã chuẩn bị sẵn, đem ra cắm nghiêng nghiêng trên tầng gác mặt tiền, khi không có gió, nó rũ xuống, khi có gió, nó phật phờ tung bay, tạo thêm không khí thắng lợi, cùng kết quả to lớn của phong trào vận động. Còn thêm một quy định nữa, tất cả mọi nhà trong thị trấn, nhất luật không nuôi chó, mèo, gà, thỏ, ong, gọi tắt là “năm không” để bảo đảm vệ sinh và an toàn của phố xá. Mỗi hộ chỉ được nuôi ba con gà mái là cùng. Đối với cách thức sử dụng ba con gà mái này như thế nào, lại không thấy quy định, nhưng có lẽ là góp cổ phần vào “ngân hàng gà”, rút tiền ra mua mắm muối, và cốt là để khi có cán bộ cấp trên về xã, ăn bữa cơm thết ở thị trấn cũng có được hai cái trứng gà tráng. Trên phố cấm mở quán bán hàng, tất cả những người buôn bán cũ đều thôi buôn, chuyển sang làm ruộng.
Trên đây mới là cách mạng hóa bộ mặt đường phố. Song còn điều sâu sắc hơn là chính trị hóa quan hệ giữa người với người. Thị trấn cũng đặt ra “chế độ bảo vệ an ninh”, khách đến phải đăng ký, đi xa phải xin phép, đêm tối các dân quân cốt cán đi tuần tra, kiểm soát. Đồng thời đặt ba hòm “thư phát giác” ở đầu phố, giữa phố và cuối phố. Tất cả mọi người đều được bỏ vào đấy những thư từ tố giác và tài liệu tố cáo. Những người hàng xóm láng giềng tố cáo nhau có thể không cần ký tên, đồng thời người tố cáo được giữ bí mật và bảo vệ.
Những người biết sự việc mà không tố cáo, có tội ngang với người phạm tội. Những người có công trạng trong tố giác sẽ được ghi vào “lý lịch công dân”, đồng thời có phần thưởng xứng đáng về vật chất cũng như về tinh thần. Hòm “thư phát giác” có người chuyên trách, mở hòm, khóa hòm theo đúng định kỳ. Sau khi thiết lập được chế độ tố giác, đã có được những hiệu quả thật rõ ràng. Hàng ngày cứ vào lúc chạng vạng tối, nhà nào nhà nấy thi nhau đóng cửa sớm, lên giường ngủ, tiết kiệm được dầu đèn, thị trấn được yên tĩnh. Còn giữa ban ngày ban mặt hàng xóm láng giềng bỏ hẳn cái lệ nhà nọ đến nhà kia, tránh cái vạ trống mồm, trống miệng, bị người tố cáo, gây nên những chuyện rắc rối, rách việc. Trước kia trong thị trấn vốn có cái lệ đem biếu, đem cho nhau những thức ăn uống để giữ tình, giữ nghĩa, đến nay đã phê phán cái tình người, tính người của giai cấp tư sản, nên chỉ đành có cách là dỏng đôi tai giác ngộ lên với nhau, mở to đôi mắt sáng láng, cảnh giác đề phòng mọi sự động tĩnh của hàng xóm láng giềng. Trước kia là: “Tôi vì mọi người, mọi người vì tôi”. Nay là: “Mọi người phòng tôi, tôi phòng mọi người”.
Lại nữa, nay trận tuyến giai cấp ở thị trấn đã được phân định rõ ràng. Sau vô số những đại hội, trung hội, tiểu hội, vai kề vai, mặt đối mặt và các kiểu xóc xách lại đội ngũ chính trị, mọi người đều hiểu được rằng: Địa vị của cố nông hơn bần nông, địa vị của bần nông hơn trung nông lớp dưới, địa vị của trung nông lớp dưới hơn trung nông lớp trên, cứ như thế phân chia thành ba loại, chín cấp. Cư dân phố phường có tranh chấp, cãi cọ nhau, trước hết phải xem xét thứ bậc giai cấp của đôi phương ra làm sao, và sự cao thấp về thành phần của mình. Chỉ có lũ nhóc con trên dưới mười tuổi không phân biệt được lợi hại, nên không tính gì đến chuyện này. Nhưng sau một vài lần được những bài học sứt đầu mẻ trán, mới biết được rằng, chúng không thể manh động, xem thường, vượt qua cấp bậc xã hội của cha mẹ chúng. Mới tí tuổi đầu chúng đã biết than vãn:
- Thật khổ khi phải sinh ra trong một gia đình trung nông lớp trên, vừa mở miệng ra là đã bị người ta nhiếc móc là bố mẹ mày thích chủ nghĩa tư bản, muốn vươn lên làm địa chủ phú nông!
- Mày có thấy không? Con cái những nhà địa chủ, phú nông, từ bé đã khổ như những con chó con, lúc nào cũng co vòi, rụt cổ như những con ba ba!
- Đời tổ tiên ăn mặn, đời con cháu khát nước! Thật đáng đời!
- Mày còn chưa biết đấy, ngay trong giai cấp bần nông với trung nông lớp dưới, cũng còn nhiều thứ khác nhau lắm, nào lịch sử chính trị có rõ ràng trong sạch hay không, nào quan hệ xã hội có phức tạp hay không, rồi ông tổ ba đời, năm đời đã được kiểm tra chưa...
- Giá mà bố tao làm bần nông hay trung nông lớp dưới có phải hay biết bao nhiêu không, lần này tuyển quân, chắc chắn anh tao sẽ trúng.
Nếu như “lý lịch cán bộ minh bạch rõ ràng” thật là điều sung sướng vô cùng. Trong cuộc vận động, tổ công tác đã từng có một quy định: Mỗi cán bộ đều phải kiểm điểm, bộc lộ thành khẩn với tổ chức Đảng và quần chúng cách mạng trong đơn vị mình, gọi là “vượt cửa quan xã hội chủ nghĩa”. Thí dụ như, trước đây mọi người thường rất tôn trọng, kính mến ông trưởng trạm thuế vụ, vì ông là một lão đồng chí, đã từng tham gia đánh du kích. Nhưng khi ông thành khẩn bộc lộ rằng: Mình vốn xuất thân từ một gia đình quan liêu địa chủ, trước khi gia nhập du kích, đã từng thông dâm với một cô người ở trong nhà, nhưng từ khi tham gia cách mạng không còn phạm vào cái sai lầm ấy nữa... Trời đất ơi, thì ra ông trạm trưởng trạm thuế vụ vốn là một thằng cha hư hỏng đến thế, cái bộ mặt thực thà xưa nay là giả dối, còn chơi gái, dâm ô mới thực là căn cốt! Sau đó mỗi khi ông đôn đốc thuế, thì trước hết bị các ông các bà hãy chửi cho một trận là “đồ dê cụ” cái đã. Lại ví dụ, ông chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu của thị trấn, trong đại hội tố khổ, đã dằn vặt, khóc lóc, bộc lộ rằng: bản thân mình xuất thân từ giai cấp nghèo khổ, tổ tiên, cha mẹ đều đi làm thuê, làm mướn, sống kiếp ngựa trâu, nhưng khi được vươn mình, đã quên gốc quên rễ, nên hồi mới giải phóng, đi rước ngay một cô tiểu thư con nhà tư sản làm vợ, không giữ được bản sắc dân nghèo, khiến cho quan hệ xã hội ngày càng thêm phức tạp, rồi về sau, cứ bậm bạch như người lùn leo thang, tuôn ra một loạt năm đứa con, nên có muốn ly hôn cũng không ly hôn được nữa... Ôi chao! Thì ra cái lão chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu cũng chẳng phải là cái của tốt đẹp gì, đâm ra lại là con rể của nhà tư sản, vậy mà lại được quản cửa hàng cửa họ trong thị trấn cơ đấy! Về sau, mỗi khi có điều gì phải to tiếng một chút đã bị chỉ mặt nhiếc móc ngay là đại diện của bọn tư sản, là đồ chó săn! Lại ví như ông kế toán của hợp tác xã tín dụng trong thị trấn đã thành khẩn bộc lộ ở hội trường rằng mình tuy là dân nghèo thành thị xuất thân, nhưng trước khi giải phóng đã bị bắt động viên đi làm lính ngụy ba năm. Về sau những người trong thị trấn đặt cho ông cái biệt hiệu: “Kế toán xỏ nhầm giầy”... đại khái là như thế... Có người trong thị trấn đã làm một bài vè:
Mặt nạ cán bộ lột đi,
Mấy ai ra cái thá gì đâu anh!
Địa chủ chết, nông dân canh,
Còn địa chủ sống, lại hành nông dân...
Ngày phiên chợ của thị trấn Phù Dung cũng có thay đổi, từ năm ngày một phiên, chuyển thành tuần lễ một phiên, họp vào ngày chủ nhật, tiện cho việc sắp xếp thời gian của cán bộ công nhân trong thị trấn lẫn những xí nghiệp mỏ quanh vùng, còn như tại sao lại định vào ngày Chúa Nhật ấy, nó có phù hợp với sự đòi hỏi của cách mạng hay không, thì trước kia dân thị trấn chỉ tin vào Phật kinh, mà không hề biết có Thánh kinh, do vậy chẳng có ai để tâm nghiên cứu cả. Nhưng có người lại cho rằng, ngày chủ nhật là ngày thông dụng trên toàn thế giới, chọn ngày phiên chợ vào ngày đó, sẽ có lợi cho việc đại đồng thế giới sau này. Thị trấn cũng thành lập một ban quản lý, trật tự chợ, do Vương Thu Xá, vào Đảng hồi “bốn thanh tra”, bí thư chi bộ đại đội sản xuất của thị trấn kiêm nhiệm chức trưởng ban. Ban quản lý trật tự chợ lấy Hồ Ngọc Âm, phần tử phú nông mới do bán canh bánh tráng mà thành giàu sụ làm điển hình đen, để tuyên truyền giáo dục và nghiêm khắc kiểm tra, chú ý tới mọi động tĩnh của chủ nghĩa tư bản. Bên dưới ban quản lý trật tự chợ có mười nhân viên trật tự đeo băng vàng trên ống tay áo chuyên trị những kẻ đầu cơ lừa đảo, kiểm tra bắt những tư nhân bán các loại nông sản phụ, bán thủ sản, lâm sản theo giá cao, và những vật tư thuộc loại một, loại hai, loại ba do nhà nước thống nhất quản lý cấm không được buôn bán trên thị trường. Như vậy là, cứ mỗi phiên chợ trong trụ sở của ban quản lý trật tự chợ xếp đầy những hàng hóa bị thu hồi và tịch thu như nấm tươi, cá tươi, ếch núi, và thịt thú rừng vân vân... Các loại hàng hóa này, không thể nộp lên trên, nhập kho nhà nước, để tăng thêm tổng thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Ban đầu, quả thực có để hư hỏng, thối nát mất một ít, rất chi là lãng phí. Về sau mới ngộ ra được một phương pháp: Tất cả những hàng hóa vi phạm bị thu hồi, bị tịch thu nhất loạt coi là thứ phẩm, chất lượng kém, đem giảm giá, xử lý. Cái đó có thể nói là nhất cử tam lợi: Tránh được lãng phí; ban quản lý trật tự chợ có thu nhập để làm kinh phí hoạt động; và mỗi nhân viên quản lý đeo băng vàng trên ống tay áo, sau một ngày phiên chợ bắt bớ, giằng co, đấu khẩu, được phân phối ít nhiều hàng tươi sống, hoặc lâm sản, thủy sản gọi là cải thiện đời sống. Ngày xưa khi làm tuần đinh, còn có tiền mua giầy dép cơ mà. Tất nhiên trưởng ban quản lý Vương Thu Xá chẳng bao giờ quên chọn ít nhiều hàng tươi sống trong số hàng tịch thu được đó đưa về nhà ăn công xã, cho bí thư Lý Quốc Hương cùng cải thiện đời sống, về sau, ban quản lý trật tự chợ đổi tên là “tiểu phân đội dân quân”, uy tín càng được nâng cao, và quyền lực cũng lớn. Những con cá tư bản chủ nghĩa ngóc đầu khỏi mặt nước như bọn buôn bán lâm sản, những người dân chài cá mú cứ trông thấy tiểu đội phân đội dân quân là sợ chẳng khác gì lũ chuột trông thấy lũ mèo, và chỉ mong sao được biến thành Tôn Hành Giả chui tụt xuống lỗ nẻ để tránh cái quả “chuyên chính toàn diện đối với giai cấp tư sản”. Nhưng cũng có lúc các đội viên tiểu phân đội dân quân lại không đeo chiếc băng vàng trên ống tay áo, mà đút giấu trong túi, để vây bắt bọn tư thương, khi đã tóm được hàng hóa đang giấu giếm, mới rút phắt chiếc băng vàng ra huơ huơ trước mặt người bị bắt:
- Ha ha bọn cầy cáo có ranh khôn đến đâu cũng không lọt được mắt người thợ săn nhá! Bọn tư sản chủ nghĩa có trốn tránh cũng không thoát khỏi bàn tay của tiểu phân đội dân quân đâu nhá!
Chủ của các “hàng cấm” bị thu hồi, bị tịch thu, nói chung là không dám ho he, nếu tranh cãi lôi thôi, lập tức bị bắt giữ, rồi gọi điện thoại cho đội sản xuất địa phương, cho dân quân đến giải về... Chuyện cứ bùng nhùng như thế mãi, nên một số người ở tít trong bản làng xã, kém giác ngộ, đã vụng trộm đặt cho họ một cái tên là: “Thổ phỉ nhà nước”! Thật đúng là loại cứng đầu cứng cổ.
Ở thị trấn Phù Dung cũng còn một điểm cách mạng hóa nho nhỏ nữa cần phải đề cập tới, đó là Tần Thư Điền phái hữu, tội phải đội mũ sắt, cùng với Hồ Ngọc Âm phú nông mới, cứ sáng sớm hàng ngày, trước khi quần chúng cách mạng ra khỏi giường, phải đi quét phố Đá Xanh một lượt.
Tuy lịch sử là nghiêm khắc vô tình: lịch sử không phải là cô gái để cho người ta muốn điểm trang thế nào cũng được. Lịch sử hiện đại Trung Quốc thường có những ngọn bút thần, xuất kỳ bất ý vẽ nên những nét tuyệt vời, thậm chí có khi lại điểm thêm những nét khôi hài cho một nhân vật phong lưu hiện đại.
Thị trấn Phù Dung được coi là điển hình về cách mạng hóa trong toàn huyện, Lý Quốc Hương được coi là “một người lính xung kích trong việc học tập và vận động chính trị”. Chẳng bao lâu, do đòi hỏi của cách mạng cần phải có những nữ kiện tướng xông xáo, được việc, nên chị ta được đề bạt vào thường vụ huyện ủy, kiêm bí thư công xã. Để củng cố thành quả của “bốn thanh tra” nên đại bộ phận thời gian của chị ta là ném vào hợp tác xã cung tiêu, bên trong bức tường cao ở thị trấn Phù Dung.
Nhưng chưa được nửa năm, chị ta còn ngồi chưa ấm chỗ trên chiếc ghế của thường vụ huyện ủy, và bí thư công xã, thì lại có một phong trào vận động vĩ đại ào ào ập tới, như một cơn hồng thủy mênh mông trời đất. Lý Quốc Hương cũng bàng hoàng, hoảng hốt mất mấy hôm, rồi chị ta lập tức đứng vào hàng đầu của phong trào vận động mới này, chủ động, tích cực lãnh đạo phong trào. Trước hết là bắt trưởng trạm thuế vụ cùng với mấy tên “Tiểu Đặng Thác” ở thị trấn Phù Dung, bỏ những tên “Tiểu Đặng Thác” này vào chung một giỏ với các phần tử loại 5, và đã nhiều lần dẫn giải đi vòng quanh thị trấn để “đấu tố lưu động bọn đầu trâu mặt ngựa” này. Nhưng khi chị ta còn chưa giữ ổn được cái bánh lái của cuộc vận động công xã này, thị trấn này, đã có người nhẩy bổ ra làm loạn, tạo phản, và viết báo chữ to phê phán chị ta. Chị ta điều tra ra rằng: Chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu, cùng kế toán hợp tác xã tín dụng, là “chỗ dựa đằng sau vũ đài đen”, bèn lập tức tổ chức quần chúng và những cán bộ cách mạng như Vương Thu Xá phản kích lại, bắt luôn mấy tên “thực là phái hữu lại giả vờ làm phái tả”. Thật đúng là cuộc đấu tranh giai cấp, mày chết tao sống, đỏ như lửa, sắc như dao (nguyên văn: trắng như bông lau) vậy, ai tiêu cực do dự, ai mềm lòng nhụt chí, sẽ đánh gục mặt xuống đất cho đáng kiếp, và bị hàng vạn gót chân, giày đạp lên. Nhưng các tiểu tướng hồng vệ binh đã bắt đầu nổi lửa, thổi gió, liên kết từ trên xuống dưới, nơi nơi trong toàn quốc, như thiên binh, thiên tướng đột ngột xuất hiện ở thị trấn Phù Dung. Thật đúng là không còn kỷ cương, giời đất gì hết, chúng cầm cái gậy do thủ trưởng trung ương giao cho, đánh đổ Đảng ủy, làm cách mạng, làm cho cái thị trấn nhỏ Phù Dung cũng nhốn nháo, nhộn nhạo tung lên. Khẩu hiệu là: “Phái hữu không thối, phái tả không thơm”. Bọn chúng cũng đã tiến hành bất chợt khám xét nhà Lý Quốc Hương một lần, không khám xét thì thôi, nhưng đã khám là thành rách việc, lôi thôi, khiến lũ trẻ lác mắt, đỏ mặt. Chúng tìm thấy ở trên giường nữ bí thư chưa từng kết hôn, mấy cái của khỉ chuyên dùng cho nam giới, mà không tiện nhắc tên. Điều đó làm cho các tiểu tướng giận sôi lên sùng sục, chúng lấy một đôi giày rách (1) quàng lên cổ Lý Quốc Hương rồi lôi đi diễu phố để thị uy!
Ngày hôm đó, cùng bị lôi đi diễu phố với Lý Quốc Hương còn có bọn loại 5 đen, của toàn thị trấn, đeo biển trên ngực. Khi các phần tử loại 5 phát hiện ra Lý Quốc Hương cũng tham gia nhập vào cái hàng ngũ hồn ma bóng quỷ của mình, thế là có giời mới hiểu được những cái đầu cứng như đá hoa cương luôn luôn cúi gục xuống, cùng những con mắt lấm la lấm lét, luôn luôn nhìn xuống mặt đường phố Đá Xanh ở dưới chân, nghĩ ngợi những gì, cùng với những biểu hiện tình cảm của họ ra làm sao. Chỉ có anh phái hữu, đội mũ sắt, Tần Thư Điền ngoảnh đầu lại nhìn Lý Quốc Hương một cái mà thôi. Bốn con mắt gặp nhau, lập tức bật tóe ra những tia lửa vàng lửa xanh. Trong ánh mắt nhìn đó của Tần Thư Điền mang đầy vẻ thách thức, trào lộng, châm biếm. Còn cái nhìn phản kích của Lý Quốc Hương lại là thứ ánh sáng lạnh lùng của một thanh kiếm sắc. Chỉ trong vòng một hai giây đồng hồ, Tần Thư Điền đã phải cụp mắt mình lại, quay người tiếp tục bước về phía trước. Kẻ thù chính thức của giai cấp, một phần tử phái hữu phải chịu xun vòi, bởi chiếc roi gân bò, đầu bịt đầu của hồng vệ binh đã rít lên trong không khí vút tới. Thật khốn khổ cho Lý Quốc Hương, trên cổ ngoài tấm bảng đen, lại còn phải thêm một đôi giầy rách.
Chị ta đã nhiều lần tìm tới lũ hồng vệ binh để thanh minh, giải thích:
- Thưa các tiểu tướng hồng vệ binh, các chiến hữu, các đồng chí! Tôi khẳng định rằng ở đây đã có sự nhầm lẫn rồi. Làm sao lại có thể đem tôi trộn lẫn với bọn phần tử loại 5, bọn hồn ma bóng quỷ ấy được? Xưa nay tôi chưa bao giờ là phái hữu. Năm 1957, tôi ở phòng thương nghiệp huyện chuyên môn đi bắt bọn phái hữu. Năm 1959, tôi tham gia huyện ủy chuyên chống hữu khuynh. Hai năm 64, 65, tôi là tổ trưởng tổ công tác, tôi trị bọn phần tử loại 5, bắt lũ phú nông mới, đấu bọn phái hữu cũ... Kể từ khi tôi tham gia công tác cách mạng tới nay, tôi luôn luôn là phái tả, phái tả chân chính! Cho nên thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, các tiểu tướng bắt tôi, tôi khẳng định là có sự nhầm lẫn rồi, thế là phái tả mới, bắt phái tả cũ...
- Ha ha! Mẹ kiếp! Đồ giầy rách! Đồ mặt dầy! Mày còn dám mở miệng nói đến phái tả cơ à? Bọn tao đấu tố lũ xét lại phản cách mạng, là phái tả mới, bắt nạt phái tả cũ hả? Thật là sự vu cáo độc địa, sự chống trả điên cuồng!
Hồng vệ binh lỗ mãng, cục cằn, đầu óc rỗng tuếch, nói đặc một giọng miền Bắc, lấy roi gân bò quất, khiến Lý Quốc Hương, tự phong cho mình là “phái tả chân chính”, không còn dám ho he gì nữa, đành thôi không dám thanh minh thêm nửa lời.
Đó là những năm tháng gì vậy? Đó là những năm tháng mà tất cả những cái chân, cái thiện, cái mỹ, cùng với cái giả, cái ác, cái xấu, và phải trái, trắng đen, điên đảo, đảo điên, nhốn nháo vón thành một cục. Đó là những năm tháng mà gan bồ, phổi lợn, ruột chó, lòng lang, đổ chung vào một vạc, ninh nấu, hầm nhừ. Đó là những năm tháng chính nghĩa phải nếm cứt mà nhịn nhục, thói cẩu thả, bừa bãi nảy sinh, tính bè phái tràn lan phát triển, phong hỏa mịt mù.
Khi ấy trên sông Phù Dung đang xây một cây cầu bán nguyệt lớn, thế là sắp có đường ô tô đến thị trấn phù Dung. Các phần tử loại 5, lũ hồn ma bóng quỷ, đều bị áp giải đến công trường cầu tham gia nghĩa vụ lao động, khênh đá, sàng cát. Công trường cho ăn một bữa cơm trưa. Lý Quốc Hương có chết cũng không chịu làm chung một việc sàng cát với mụ phú nông mới Hồ Ngọc Âm, và lại càng không chịu chung một chiếc đòn khênh đá với Tần Thư Điền phái hữu. Chị ta nghiến răng lại, một mình cõng những hòn đá lên dàn giáo. Chị ta luôn luôn chú ý tới địa vị, tư cách của mình, nhất định không chịu lẫn lộn vào với đám phần tử xấu, với lũ quỷ đen, bởi vì bản thân mình vốn thuộc lớp người trên. Vì rồi, trước sau, cũng có một ngày, làm rõ được cái ranh giới chính trị, cái phái tả phái hữu của mình.
Bữa cơm trưa, theo quy định mỗi người được ba lạng, đó là định lượng của hồn ma bóng quỷ. Trời nắng to, cường độ lao động lớn, mồ hôi ra nhiều, ba lạng gạo cùng một môi canh cà với ớt, hoặc một môi canh bí đỏ, làm sao mà đủ no? Công việc buổi chiều cũng không bỏ được, bọn quỷ đen xôn xao nháo nhác xin thêm cơm. Chỉ có Hồ Ngọc Âm xưa nay vốn ăn ít, nên gọi là tạm đủ no. Còn Lý Quốc Hương xưa kia vốn ít tham gia lao động chân tay, nên lượng cơm cũng tăng lên theo sức lao động, ba lạng cơm vào bụng vẫn chưa thấy thấm tháp gì. Những tiểu tướng hồng vệ binh canh gác việc lao động của họ, bèn nghĩ ra một biện pháp để trừng trị bọn cặn bã của xã hội này: Muốn xin thêm cơm cũng được, nhưng có một điều kiện là phải múa một đoạn theo điệu: “điệu múa quỷ đen” trên một đoạn đường dài chừng mười lăm mét từ cửa lều nhà ăn cho đến cửa sổ phát cơm lều nhà bếp, đồng thời giải thích đầy đủ yếu lĩnh của những tư thế, cùng động tác của “điệu múa quỷ đen” một lượt.
- Tần Thư Điền! Trước khi mày bị xếp vào hàng ngũ phái hữu, mày đã từng làm giáo viên âm nhạc và thể dục ở trường huyện, lại đã từng làm biên đạo của đoàn ca múa. Bây giờ mày hãy làm mẫu cho đồng bọn của mày xem một lần.
Chàng Tần Thư Điền, phái hữu phải đội mũ sắt sau khi nhận được lệnh của các tiểu tướng, lập tức đứng ngay vào giữa cửa ngôi lều làm nhà ăn. Đối với loại biểu diễn kiểu này, xưa nay chưa bao giờ anh chậm trễ, và thường tỏ rõ sự chủ động tích cực vừa làm cho người ta cười vui, vừa làm cho người ta rất khó chịu. Anh đặt ra những câu hỏi về yếu lĩnh, động tác cơ bản của “điệu múa quỷ đen” một lần và im lặng nghĩ ngợi ở trong lòng một lát, rồi không thèm nhìn ai, bắt đầu nhảy múa: Một tay anh giơ cao chiếc bát, một tay giơ cao đôi đũa, hai tay bắt chéo vào nhau múa may, anh chồm hổm xoạc hai đầu gối, chân trước chân sau, nhảy chồm chồm trên mặt đất, miệng bắt nhịp theo động tác chân tay, hét hên:
- Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm. Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm. Thêm cho hồn ma bóng quỷ một bát cơm...
Điệu múa đã làm cho các tiểu tướng hồng vệ binh cười vỡ bụng, vừa vỗ tay vừa hò hét khen hay. Các xã viên vây quanh đó cũng không nhịn được những trận cười như nắc nẻ:
- Tần Rồ, múa lại đi! Tần Rồ múa lại đi! Mỗi ngày mày nhảy múa ba lần, coi như cải tạo xong, và cho bỏ mũ ra.
Các phần tử loại 5 lại bị “điệu múa” của Tần Rồ làm cho hết hồn. Có người tái xanh tái xám mặt mày, cứ như vừa chui từ dưới mồ lên. Có người lại cúi đầu, ngoảnh mặt đi, sợ bị các tiểu tướng, hoặc quần chúng cách mạng gọi tên mình, ra múa “điệu múa quỷ đen”. Nhưng không có ai bàng hoàng hoảng hốt, lại càng không có người khóc. Những con người ấy, giống như hòn đá kê trong chuồng xí, vừa cứng vừa thối, và đã quá thích ứng được với các kiểu, các loại sỉ nhục rồi. Họ đâu còn hiểu được, trên đời này, có hai chữ “xấu hổ”!
Ông đầu bếp trong nhà ăn không cười, mà chỉ lặng đi nhìn. À, à, thì ra “đại cách mạng văn hóa”, ngoài những sách quý bìa đỏ, những bài hát trích lời giảng dạy, những bài kinh mỗi ngày tụng ba lần, phá bốn cái cũ, quật ngã tượng phật, giật đổ đền đài, lục soát cửa, lại còn có “điệu múa quỷ đen” này nữa... Đây có phải chăng là văn hóa mới? Đây có phải chăng là tư tưởng mới, phong tục mới, tập quán mới? Lòng dạ ông đầu bếp hình như còn chưa đông cứng lại, và tư tưởng ông hình như còn chưa “triệt để” vô sản hóa, nên khi xúc cơm vào bát cho Tần Thư Điền, đôi tay ông run rẩy, và mắt ông rơm rớm lệ.
Hôm đó, quả thật bụng dạ Lý Quốc Hương cũng đang đói cào đói cấu. Chị ta đợi cho các tiểu tướng hồng vệ binh cùng quần chúng cách mạng cười cợt chán chê xong, liền cầm cái bát rỗng của mình đi thẳng tới cửa sổ phát cơm. Hình như chị ta có ý lấy cái hành động đó, cái tư thế đó để chứng minh sự khác biệt giữa mình với những kẻ phái hữu chính cống và những phần tử loại 5 thì phải. Nhưng các tiểu hồng vệ bình đâu có chịu buông tha cho chị ta, và buộc chị ta phải đứng vào hàng ngũ của những hồn ma bóng quỷ:
- Đứng lại! Con mẹ kia định đi đâu đấy?
- A, cái con giầy rách này! Đằng sau... quay. Mục tiêu cửa chính, bước nghiêm, bước!
Một chiếc thắt lưng da to bản trong tay một nữ hồng vệ binh quay vun vút phía sau, buộc chị ta phải thực hiện mệnh lệnh. Chị ta sợ ăn đòn, vội quay lại phía cửa chính, trên mặt còn vương vất một nụ cười:
- Thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, em no rồi, em không xin thêm cơm nữa!
- Có ma quỷ là “đồng chí”, là “chiến hữu” của mày!
- No rồi? Mày no rồi hả? Vừa rồi sao mày có vẻ oai phong thế? Mày định to ve tỏ vẻ với ai thế? Mày định khiêu khích ai vậy? Mày tưởng mày cao quý hơn những hồn ma bóng quỷ khác hả? Bây giờ bất kể là mày có muốn xin thêm cơm hay không, chúng ta bắt buộc mày, phải học thằng phái hữu Tần Rồ nhảy múa một đoạn của “điệu múa quỷ đen” từ cửa này tới cửa sổ phát cơm kia, cho mọi người xem!
- Đúng! Bắt cái con “chiến hữu” này nhảy múa! Bắt cái con “chiến hữu” này phải nhảy múa!
- Đấy cứ nhìn kỹ mà xem, nó có khuôn mặt trái xoan, có cái eo rắn nước, tay dài chân dài, thân mình thon thả, ra dáng một nàng vũ nữ lắm!
Các tiểu tướng hồng vệ binh gào thét ầm ĩ. Không hiểu tại sao, các tiểu tướng từ đẩu từ đâu ấy, kéo tới đây; những “ông con Giời” thích đùa dai ấy, lại đặc biệt khinh bỉ, và cũng đặc biệt thù ghét người đàn bà này.
- Thưa các tiểu tướng, thưa các chiến hữu, thưa các đồng chí, tôi thực tình không biết nhảy múa, từ xưa tới nay tôi chưa hể nhảy múa bao giờ... Xin các tiểu tướng đừng nổi nóng, đừng đánh bằng thắt lưng da, tôi bò, tôi xin bò, bò đến cái cửa sổ phát cơm.
Lý Quốc Hương nuốt nước mắt đắng cay, bắt đầu bò, bò bằng cả chân lẫn tay, giống như một con chó.
Liên tục quay về bên trái, sự vật đi tới mặt sau của mình. Những kẻ lấy việc chỉnh đốn người khác làm vui, cuối cùng chính mình cũng bị chỉnh đốn. Cái đó nhà Phật gọi là “nhân quả báo ứng”, là “vòng luân hồi”.
Cuối năm 1968, khi ủy ban cách mạng huyện được thành lập, vấn đề Lý Quốc Hương thuộc phái chính trị nào cuối cùng đã được làm sáng tỏ, khôi phục lại cái danh vị phái tả cách mạng xưa nay của chị ta, được cắt cử vào ban thường vụ của ủy ban cách mạng huyện, đồng thời là chủ nhiệm ủy ban cách mạng công xã. Nên ra, chị ta cũng chẳng cần oán trách hoặc thắc mắc gì, bởi, chị ta cũng đã từng nhiều lần động viên chính trị mọi người trên hội trường rằng: Trong thời kỳ đầu của các phong trào vận động khi quần chúng cách mạng vừa mới được phát động lên, cũng khó tránh khỏi những hành động quá tả, vấn đề là ở chỗ ngăn chặn và uốn nắn ra sao. Không thể giội nước lạnh, hoặc thốc gió buốt, vào đó được. Huống hồ, là trong cuộc “Đại cách văn hóa của giai cấp vô sản”, “chưa từng có trong lịch sử” này, cũng khó mà tránh khỏi những sai sót vụn vặt kiểu “phái tả đánh phái tả, người tốt đánh người tốt” như thế được.
Chú thích:
(1) Người Trung Quốc lấy chiếc giầy rách làm tượng trưng cho người đàn bà có quan hệ sinh lý bừa bãi. (N.D.).