← Quay lại trang sách

TIN MẬT VỀ NHỮNG NGƯỜI QUÉT ĐƯỜNG -

TẦN THƯ ĐIỂN VÀ HỒ NGỌC ÂM LÀ HAI PHẦN TỬ loại 5 bị phạt, phải đi quét đường vào mỗi sớm hàng ngày đến nay cũng đã được hai, ba năm rồi. Hai người đều dậy từ rất sớm. Thông thường, họ bắt đầu quét từ giữa phố rồi toả dần ra hai đầu, mỗi người quét nửa phố. Cũng có khi họ quét từ hai đầu phố ập vào, cho đến khi gặp nhau ở giữa phố. May mà đường phố Đá Xanh không rộng, và chỉ dài chừng ngót ba trăm mét. Mỗi năm có ba trăm sáu nhăm ngày, năm nhuận có ba trăm sáu sáu ngày, khi người dân thị trấn còn nằm trong chăn, ngủ giấc ngủ “ban mai” quý giá, thì họ đã vung chiếc chổi tre lên, lầm lũi quét. Bất kể là mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, chiếc chổi tre của họ cứ liên tục một nhát đi, rồi lại một nhát về.

Tần Thư Điền quét đường, thường chú ý tới tư thế và bước đi của mình, điều đó, có lẽ có liên quan tới việc trước đấy anh đã từng làm biên đạo trong đoàn ca múa. Anh buộc chiếc chổi cho cao bằng người, với cái cán thật thẳng, tay phải đặt trên, tay trái đặt dưới, anh cầm cái chổi y như người diễn viên cầm chiếc mái chèo trên sân khấu vậy, và vung cái chổi lên như múa, đôi chân anh, một trước một sau thay nhau chuyển dịch, và bao giờ ngón chân cũng chạm đất trước, cũng lại giống như bước chân trên sân khấu theo nhịp trống nhịp phách. Do cái nhịp bước đều đặn và nhanh nhẹn như múa ấy nên công việc quét tước của anh bao giờ cũng vừa nhanh vừa gọn, ít tốn mồ hôi. Vì thế mà hôm nào anh cũng quét đỡ cho Hồ Ngọc Âm một đoạn dài. Còn Hồ Ngọc Âm hầu như sáng nào cũng đầm đìa mồ hôi, nhìn cung cách vung chổi của anh Tần Rồ mà cô thấy thèm. Đó là một thứ lao động chân tay, đáng ra, người đàn bà phải làm giỏi hơn người đàn ông.

Nói đến việc biểu diễn như thế của Tần Rồ trong mấy năm gần đây cũng đủ khối chuyện, chuyện vừa thương tâm, vừa buồn cười. Trong phong trào “bốn thanh tra”, anh là người bị đấu tố nhiều nhất trong số những phần tử loại 5 của thị trấn.

Tiếp đó, sau khi cải tổ, đồng chí bí thư chi bộ đại đội, được sự đồng ý của tổ công tác, vẫn cho anh tiếp tục đảm nhiệm chức tiểu đầu mục của phần tử loại 5. Cái đó gọi là lấy độc trị độc. Có điều là anh bị thêm hai chữ “mũ sắt” vào bên cạnh chữ “phái hữu” để chứng tỏ rằng cái mũ ấy không thể bị mối mọt làm hỏng được, khẳng định là anh phải đội nó theo, khi chui vào quan tài. Thứ văn vật đó, ngàn vạn năm sau sẽ được khai quật lên, mời các nhà sử học khảo nhiệm, nghiên cứu, chọn lựa viết lấy một luận văn học thuật về giai cấp đấu tranh ở nông thôn Trung Quốc vào cuối thế kỷ XX. May mà Tần Rồ không lấy vợ, không có người nối dõi, nếu không, cái món di sản chính trị này, còn phải lưu truyền từ đời nọ sang đời kia. Riêng anh Tần Rồ cũng hiểu được một điều rằng: Trong phong trào nào đó đều cần phải có đối tượng, và trong đấu tranh đều cần phải có kẻ địch. Mỗi thôn mỗi trấn đều phải có lấy mấy con hổ chết, mấy cái bia sống, nếu không, về sau, mỗi cuộc vận động quần chúng, đấu tranh giai cấp, sẽ phát động ra sao, và lấy ai ra mà khai đao làm lễ tế cờ. Cứ mỗi lần cấp trên kêu gọi giữ vững đấu tranh giai cấp, nhưng cán bộ cơ sở phải mở đi mở lại các cuộc đại hội, họ lại lôi các phần tử loại 5 lên sân khấu vừa vạch tội, vừa phê phán, vừa đấu tranh, sau đó mới có cái báo cáo lên trên rằng, trong cuộc vận động, đã đấu tố kẻ địch của giai cấp được bao nhiêu lần (người), cùng với thăm nghèo hỏi khổ, rồi ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, để giáo dục quần chúng, nâng cao giác ngộ, vân vân. Có những phần tử loại 5 trong đội sản xuất đã chết ngóm, thì bắt con cái chúng lên thế vị; tiếp tục những chức trách mà thằng cha phản động của chúng còn bỏ dở. Nếu không, làm thế nào cho cán bộ cơ sở, cùng những bần nông và trung nông lớp dưới hiểu được toàn bộ lịch sử giai đoạn xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tồn tại giai cấp, cùng mâu thuẫn giai cấp, và đấu tranh giai cấp được? Không hiểu được, biết được cái đó, làm sao có thể nắm được sứ mệnh lịch sử trọng đại hàng đầu này? Trong khi các cán bộ ở khắp các thôn xã chỉ được tính công điểm mà không biết mặt đồng tiền, thì không thể nói gì được về bọn “buôn lậu” cùng bọn “đại diện cho giai cấp tư sản”. Chỉ có trông vào lũ phần tử loại 5, cùng con cái chúng, cán bộ cơ sở và quần chúng xã viên mới đối phó được, nhận thức được tính liên tục lịch sử của giai cấp và giai cấp đấu tranh, để năm năm ca hát, tháng tháng giảng dạy, ngày ngày tâm niệm. Nếu không rồi ra sẽ nói năng ra sao? Và ai nói được cho thật rõ ràng về sự liên quan của cái đó đối với đại kế hoạch trăm năm, đại kế hoạch vạn năm trong “tiền đồ, vận mệnh của Đảng và đất nước”.

Trời đất ơi! Quả nhiên rằng, sau cải cách ruộng đất, trong cuộc vận động chưa từng có trong lịch sử, được tiến hành khắp các nơi trong nông thôn rộng lớn, cũng đã từng quy định lại thành phần giai cấp. Khi tư liệu sản xuất đã công hữu, và không còn tồn tại vấn đề người bóc lột người của chế độ tư hữu nữa thì người ta phải lấy thái độ chính trị, với tính co giãn cực đại để làm căn cứ vậy. Nhưng vẫn còn tồn tại vấn đề kế thừa các di sản, ví dụ như vấn đề thành phần giai cấp cha truyền con nối của các giai cấp sẽ tính sao? Ôi chao, vấn đề của con cháu, hãy cứ mặc cho cháu con nó giải quyết lấy. Nếu như cha ông giải quyết hết mọi vấn đề của con cháu đời sau, thì chẳng hoá ra là ta đã làm cho đầu óc cháu con mình quá đơn giản đi, và chúng sẽ trở thành những kẻ đần độn, chẳng biết làm việc gì sao? Những chuyện giật gân ấy, khó mà tưởng tượng ra được. Thôi, ta hãy quay về câu chuyện chính của chúng ta, để xem các kiểu biểu diễn, các cách trình bày trong mấy năm gần đây của anh chàng Tần Rồ phái hữu, đội mũ sắt thôi.

Năm 1967, trong cuộc tranh đua màu đỏ, vào đúng lúc cuộc đấu tranh của “phái tả” đang lên như diều gặp gió, không biết từ đâu ập đến một ngọn trào: Trước cửa các nhà của các phần tử loại 5, đều phải đắp một bức tượng chó bằng đất, để phân biệt với các nhà của quần chúng cách mạng nói chung, và cũng là để tiện cho quần chúng thi hành chuyên chính. Cũng giống như cái hồi con cái của các phần tử đỏ loại 5, đeo băng đỏ lên ống tay áo đi làm hồng vệ binh, con cái của những bậc cha mẹ có vấn đề lý lịch chung chung, đeo băng vàng trên ông tay áo làm “hồng ngoại vi”, con cái của các phần tử đen loại 8, đeo phù hiệu trắng làm lũ “cún con” vậy. Trong đại đội sản xuất của thị trấn này có tất cả hai mươi hai tên phần tử loại 5 cần phải đắp hai mươi hai bức tượng chó. Đây là một loại công tác nghĩa vụ, không được chấm công điểm bồi dưỡng, tất nhiên rằng, công việc đó lại đổ lên đầu anh chàng Tần Rồ, vừa viết vừa vẽ được kia. Sau khi Tần Rồ nhận nhiệm vụ, bèn moi ở dưới ruộng lên từng gánh, từng gánh đất sét, đổ ở trước mỗi nhà phần tử loại 5 một gánh. Việc ấy có thể coi như một loại lao động mang tính nghệ thuật. Ngày nào cũng có rất nhiều người vây quanh xem xét, bình phẩm và mách nước, anh cần cù, lao động gian khổ, làm thêm giờ, thêm ca. Không đầy một tháng, trước cửa nhà hai mươi hai hộ phần tử loại 5 đã có hai mươi hai pho tượng đất. Có đực có cái, có cao có thấp, có béo có gầy. Bên dưới đế mỗi pho tượng đất, đều có tên và chức vụ của mỗi tên quỷ đen, và tất cả đều có ít nhiều nét đặc trưng giông giống với nét mặt của phần tử ấy. Cái đó, đã thành những tin tức kỳ lạ trong đại đội sản xuất của thị trấn một thời. Người lớn, trẻ con đã tự động thành lập những tổ đánh giá, nghiệm thu và xét thưởng. Mọi người đều nhất trí rằng: Pho tượng chó ở chính trước cửa nhà Tần Rồ, là pho tượng sinh động nhất, và giống hình dạng của anh nhất.

- Này, anh bạn Tần Rồ! Cái nhà anh là rất tự tư tự lợi, đấy nhé, anh đã đổ hết sức vào việc nặn pho tượng chó của chính mình!

- Hây! Hây! Không phải là tự tư tự lợi đâu... chỉ thị tối cao đã nói, đời sống là ngọn nguồn duy nhất của văn học nghệ thuật, đương nhiên là tôi thuộc bản thân tôi hơn cả, nên đã nặn ra được pho tượng giống hơn tất cả.

Trong “lao động mang tính nghệ thuật” của Tần Rồ, có một thiếu sót nghiêm trọng, đó là anh đả quên không nặn một pho tượng chó, ở trước cửa nhà trọ Hồ Ký, nay đã được thay thế bằng cô phú nông, quả phụ trẻ măng Hồ Ngọc Âm. Cái “âm mưu” ấy mãi rất lâu về sau này mới bị phát giác, lập tức anh bị lôi ra đấu tố, và thẩm vấn: Tại sao lại đi bao che, và đã câu kết với Hồ Ngọc Âm những gì? Anh vỗ tay vào gáy một cái và lập tức cúi đầu nhận tội, với lý do là anh ta chỉ nhớ những tên phần tử loại 5 có tuổi trong đại đội sản xuất, và quên mất tên phú nông mới được quy định thành phần trong phong trào “bốn thanh tra”. Anh hứa miệng rằng sẽ lấy hành động thực tế để sửa chữa sai lầm nhưng rồi cũng kéo dài ra không biết bao nhiêu ngày. Ít lâu sau, cấp trên đã truyền đạt tinh thần xuống, nói: Trong việc đấu tranh, cần phải chú ý đến chất lượng và chính sách, đối với các phần tử loại 5, cần phải phê phán về tư tưởng cho sâu sắc và thấu suốt, kỹ càng, phê cho thôi hẳn, đổ hẳn, nhưng không nên vụ vào hình thức. Vì thế mà trước cửa nhà trọ Hồ Ký vẫn không thấy xuất hiện pho tượng đất. Hồ Ngọc Âm rất biết ơn Tần Thư Điền về việc này. Nghe đâu vào cái đêm Tần Thư Điền bị đấu tố, cô đã rúc vào buồng khóc đến sưng cả mắt. Anh Tần đã chịu tội thay cho cô, cứu được mạng sống cho cô. Nếu không, khi cô nhìn thấy lũ trẻ con, vạch quần đái vào pho tượng đất trước cửa nhà mình, có lẽ cô phải tự tử mất.

Mặt dù văn kiện của cấp trên yêu cầu không nên vụ vào hình thức, nhưng mỗi khi phần tử loại 5 bị lôi đi diễu hành bêu riếu, bảng đen vẫn phải đeo, mũ cao vẫn phải đội. Thị trấn Phù Dung là địa phương bé nhỏ, lại là nơi tỉnh giới, xa xôi hẻo lánh, chứ ở Bắc Kinh mỗi khi mở đại hội đấu tranh, người ta còn bắt những dôi tượng bị đấu tố đeo bảng đen, rồi cắm cọc đem trói giật cách khỉ vào đấy nữa kia. Có một số đối tượng bị đấu tố vốn là cán bộ to, với những người là cách mạng lão thành cả. Bắc Kinh là đâu, thị trấn Phù Dung là đâu, so sánh làm sao được? Trên bức bản đồ to bằng nửa bức tường, mà còn tìm chẳng ra cái chấm đen to bằng đầu que diêm của thị trấn, còn nói gì đến cái bảng đen của hai mươi ba phần tử loại 5, đều do một tay cao thủ Tần Rồ viết ra. Để thể hiện cái đức đại công vô tư, Tần Rồ đã làm lấy tấm bảng đeo trên cổ mình to hơn của người khác một chút. Trên tấm bảng đen của mỗi phần tử loại 5 đều viết rõ “chức vụ” của từng người, bên dưới “chức vụ” là họ tên, đồng thời dùng bút son gạch chéo lên một chữ “X” biểu thị tội trạng đáng chết đến vạn lần, đáng lý ra mỗi lần đem đi diễu hành bêu riếu về là phải bắn bỏ một lần. Lần này Tần Rồ lại giở cái trò bậy bạ ra, trên tấm bảng đen của “Hồ Ngọc Âm phần tử phú nông mới” anh đã bỏ mất mấy cái gạch chéo bằng son đỏ. Được cái đông người dễ quáng mắt, nên “âm mưu” lần này, không bị đôi mắt sáng suốt của quần chúng cách mạng phát hiện, và anh đã thoát được tội. Hồ Ngọc Âm phần tử phú nông mới, xuất thân từ một cô mở quán bán canh bánh tráng, mỗi lần bị lôi đi diễu hành bêu riếu, lần nào cũng nước mắt lưng tròng, nên cô biết ơn tấm lòng quý hoá ấy của anh rất nhiều. Là người cùng cảnh lâm nạn với nhau, và trong cái thế giới thê thảm này, cô vẫn còn nhận được một chút ấm áp của mùa xuân.

Mọi người trong thị trấn đều bảo rằng, trong hơn mười năm nay Tần Rồ đã bị đấu tố đến mức độ nhờn đi và chai ra rồi, coi như một vận động viên lão thành. Mỗi lần anh bị dẫn đi đấu tô, đối với anh cũng như chuyện đi làm vậy thôi, mặt chẳng trắng bệch ra và tim không đập mạnh, nghiễm nhiên như một tên đầu mục đen thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt đã được ủy thác:

- Tần Thư Điền!

- Có tôi!

- Tên phái hữu đội mũ sắt!

- Có mặt!

- Tần Rồ!

- Đã có mặt!

Bao giờ cũng vậy, giọng người gọi hách dịch, giọng người đáp, to tát rõ ràng. Khi phong trào “Một phê hai đấu, làm trong sạch đội ngũ giai cấp” bắt đầu, toàn công xã mở một đại đội hàng vạn người để tiến hành động viên. Những phần tử loại 5 của các đại đội đều bị lôi đến hội trường của đại đội để giáo dục thị uy, từng xâu từng chuỗi giống y như những xâu ếch người ta bán ở chợ. Sau khi bêu riếu xong, họ nhận được lệnh phải đứng dồn vào một góc tường để được giáo dục tiếp về chính sách. Nhưng rồi sau khi đại hội giải tán, mọi người đã ra về hết, nhưng hai mươi ba tên phần tử loại 5 thị trấn Phù Dung đã bị những người dân quân áp giải bỏ quên ở chỗ góc tường. Một trường hợp không nghiêm túc đã xuất hiện trong cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc. Nhưng chẳng may khi bắt đầu đại hội, đã công bố kỷ luật đại hội, trong đó có một điều: Nếu chưa có lệnh của bí thư chi bộ đại đội sản xuất, các phần tử loại 5 không được phép nói và đi lại lung tung, để tránh những sự phá hoại chương trình của đại hội. Vậy thì làm sao bây giờ, chẳng lẽ cứ đứng chôn chân ở cái góc tường này cho đến năm trâu tháng ngựa nào? Cuối cùng Tần Rồ lại nghĩ ra được một cách. Anh bảo những người đồng loại của mình đứng thành hàng, rồi anh hô khẩu lệnh:

- Nghiêm! Bên trái nhìn thẳng! Đằng trước thẳng! Báo cáo quân số, nghỉ!

Rồi anh quay đằng sau, rất đúng yếu lĩnh, bước lên hai bước, chân nọ dập vào chân kia, đứng nghiêm, nhìn thẳng vào trong hội trường trống rỗng, giơ tay phải ngang mày chào, rồi rõ ràng rành mạch thỉnh thị:

- Báo cáo Lý bí thư! Báo cáo Vương bí thư! Hai mươi ba tên phần tử loại năm ở thị trấn Phù Dung, hôm nay đã đến trước đại hội một vạn người tiếp nhận phê phán, giáo dục xong. Xin cho phép chúng tôi trở lại đội sản xuất để tiếp tục lao động cải tạo, hối lỗi, làm lại cuộc đời mới!

Anh đã thỉnh thị xong, dừng lại đợi một lát, làm vẻ như đang nghe ai đó trả lời và ra một mệnh lệnh, một chỉ thị nào đó. Sau đó anh nói tiếp:

- Có! Xin nhận lệnh chỉ thị của thượng cấp, thực thà tuân theo pháp luật... Toàn đội giải tán!

Như vậy, anh coi như đã hoàn tất mọi thủ tục, cho mọi người quay về nhà.

Sáng sớm, hơi sương mù mịt. Trên đường phố Đá Xanh của thị trấn Phù Dung, chó không sủa, gà không gáy, người và lục súc còn đang chìm vào giấc ngủ ngon lành, Tần Thư Điền đã kéo lê chiếc chổi tre đi gọi Hồ Ngọc Âm. Hai người đều là người đầu tiên, gặp nhau mỗi sáng sớm. Bao giò cũng vậy, họ đứng lại trước cửa nhà trọ Hồ Ký, đưa mắt nhìn nhau, cùng cười:

- Anh! Anh dậy sớm thật. Lần nào cũng đến gọi em.

- Ngọc Âm, em kém anh đến ngót mười tuổi, đang sức ăn sức ngủ.

- Xem ra đêm qua anh lại mất ngủ phải không?

- Anh á? Ôi dào, trước đây lao động trí óc, nên đã bị bệnh mất ngủ.

- Đêm không ngủ được thì anh làm gì?

- Anh hát những bài trong “sàn hát mừng”.

Nhắc đến “sàn hát mừng” là họ lại im bặt. “Sàn hát mừng” đó là những bài hát tai vạ, đã đem lại cho họ những bất hạnh và đau khổ. Cuộc gặp gỡ vào sáng sớm mỗi ngày của họ, là một việc không thể thiếu được trong đời sống đáng thương của họ. Ngẫu nhiên vào một sớm nào đó, ai không đến quét phố, trong lòng họ bỗng cuống cuồng lo sợ, và hình như thiếu đi một khoảng rất lớn... và một người âm thầm lặng lẽ đi quét hết cả dãy phố, sau đó mới đi dò hỏi, thăm nhau. Cho đến tận sáng sớm hôm sau, khi gặp lại nhau, nhìn nhau một cái, cùng mỉm cười, khi ấy mới thực là yên lòng yên dạ.

Sáng sớm hôm đó, trời có sương mù. Họ bắt đầu quét từ giữa phố quét ra. Họ quay lưng vào nhau và bắt đầu động chổi. Tất cả đều tĩnh lặng, cả con phố chỉ vang lên những tiếng sạt sạt sạt... sạt sạt sạt... của chiếc chổi tre, họ quét lê trên mặt đường. Tần Thư Điền quét đến đầu con hẻm kề sát bên cửa hàng của hợp tác xã cung tiêu, thì tựa lưng vào tường nghỉ, bỗng nhiên nghe thấy tiếng cánh cửa ngách của hợp tác xã, trổ trên bức tường chạy sâu vào trong ngõ, có tiếng cọt kẹt mở, anh tò mò, nghiêng người, nhô nửa khuôn mặt mình ra khỏi góc tường nhìn về phía ấy, anh thấy một bóng đen của một thân hình cao lớn, từ trong cửa ngách đi ra, và ngoặt tay lại phía sau, khép chặt cửa lại. Tần Thư Điền giật mình: “trộm”? Nhưng không phải, hai tay người đó trống không, và cũng chẳng thấy trên người có chỗ nào phồng phồng to ra, làm gì có tên trộm nào lại như thế? Trong lòng anh rất lấy làm lạ, mắt anh chăm chú nhìn theo cái bóng đen, đi dọc theo chân tường, xa dần. Anh biết rằng, tất cả cán bộ công nhân viên cửa hàng của hợp tác xã cung tiêu đều tập trung ở cả phía sân sau, trên tầng gác chỉ có một mình nữ chủ nhiệm Lý Quốc Hương ở mà thôi. Bóng dáng người lẻn ra đi này trông rất quen. Anh không ho he, và cũng chẳng dám ho he gì. Buổi trưa hôm đó, anh cố ý lảng vảng qua cửa hàng hợp tác xã cung tiêu, cũng không thấy người của cửa hàng kêu mất thứ gì.

Mấy hôm sau, một buổi sớm không có sương mù. Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm lại chia tay nhau bắt đầu từ giữa phố, mỗi người quét theo phần mình ra đầu phố, anh quét tới chỗ góc tường chạy vào trong ngõ hẻm, anh lại tựa lưng vào tường nghỉ một lát. Khi đó anh chẳng đợi tiếng cửa ngách cọt kẹt mở, anh đã ghé nửa khuôn mặt mình ra khỏi góc tường, nhìn về phía ấy. Một lát sau, cánh cửa ngách cọt kẹt kêu lên một tiếng cái bóng đen của một thân hình cao lớn, lại từ trong cửa ngách bước ra, lại quặt tay về phía sau khép chặt cánh cửa, vội vã đi dọc theo chân tường trong hẻm biến mất. Nhưng lần này Tần Thư Điền đã nhìn rõ bóng người ấy, anh giật mình kinh ngạc, là hắn, trời ơi, ngày nào cũng lẻn vào bên trong tường làm gì vậy? Việc hệ trọng này Tần Thư Điền không dám hở ra. Nhưng dù sao, anh cũng là một “người còn sống, lòng còn chưa chết”, anh kéo lê chiếc chổi chạy về phía đầu phố đằng kia, gọi Hồ Ngọc Âm đi vào một chỗ kín đáo, ghé sát vào tai người quả phụ trẻ, tiết lộ tin tức “tuyệt mật” ấy. Nói xong anh đâm sợ, dặn đi dặn lại Hồ Ngọc Âm:

- Tuyệt đối, tuyệt đối không thể nói chuyện này cho người thứ ba biết đâu đấy. Việc này, tất cả dân phố chẳng ai dám động vào đâu, chúng mình cũng chỉ là có mắt mà như mù. Hơn nữa, thân phận của mình lại thế này...

- Là hắn?

- Đích thị là hắn!

- Thị nào?

- Là thị!

- Là hắn, là thị, là hắn, anh nói thế có giời mà hiểu được đó là hắn nào, thị nào.

Hồ Ngọc Âm có vẻ vui vui vì chuyện này, và mặt cô hơi ửng đỏ lên:

- Khỉ! Anh ghé sát vào tai em mà thì thào. Râu ria lại tua tủa, làm đau hết cả mặt em rồi đây này...

- À à, râu ria của tôi... tôi sẽ cạo nhẵn nó đi, ngày nào cũng cạo...

Họ mặt đối mặt, mắt nhìn mắt, đây là lần đầu tiên họ sát vào gần nhau đến thế.

Lại vào sáng sớm một hôm khác, Tần Thư Điền nghĩ ra một trò ma. Họ gặp nhau ở giữa phố, Tần Thư Điền nói cái trò ma đó ra. Hồ Ngọc Âm chỉ cười cười, nói: “Tùy anh”! Đó là lần đầu tiên họ vi phạm vào lệnh cấm. Họ bỏ chưa quét đường vội, họ đi đến cửa chuồng trâu của đội sản xuất, lấy xẻng xúc lấy một đống thật to, toàn những của nhão nhoét ấy, đem về đổ vào đúng giữa cửa ngách trong hẻm của hợp tác xã cung tiêu, đúng vào cái chỗ mà hễ người nào từ bên trong, mở cửa ngách đi ra, thì bước chân đầu tiên sẽ dẫm lên đó. Sau đấy cả hai người đứng nấp vào chỗ góc tường, chỉ để lộ ra nửa khuôn mặt, nhìn chăm chăm về phía cửa ngách bên tường vây. Thân thể hai người bất chợt như gắn vào nhau, mà họ chẳng chú ý gì. Đợi một lúc lâu lắm, có tiếng chân từ trên gác của cửa hàng hợp tác xã cung tiêu bước xuống thang. Tần Thư Điền người cao, nên anh phải ngồi thấp xuống theo kiểu nửa ngồi nửa quỳ, còn Hồ Ngọc Âm tỳ cằm lên vai anh, cùng nhìn về một hướng. Họ rất thích thú, nhưng đồng thời cũng thấy rất căng thẳng, hình như họ mơ hồ nghe thấy tiếng tim đập của nhau. Hồ Ngọc Âm nhô hẳn cả nửa người ra khỏi góc tường. Tần Thư Điền đứng dậy ôm vai cô kéo lại, rồi không buông tay ra nữa, thậm chí càng ngày ôm càng chặt hơn. Bậy quá! Hồ Ngọc Âm đập hai cái thật mạnh, anh mới chịu buông tay ra. Tiếng cánh cửa ngách trong hẻm cọt kẹt kêu lên, lại vẫn cái bóng đen ấy lẻn ra, dứt khoát bước chân đầu tiên sẽ dẫm phải cái đống nhão nhoét quỷ quái kia, một tiếng bịch vang lên như tiếng một cây gỗ đổ.

- Đáng đời! Đáng đời! Đáng đời thằng giời đánh!

Hồ Ngọc Âm vỗ tay vào nhau và cười khanh khách, y như một cô bé con. Tần Thư Điền vội vã bịt miệng cô lại, giữ chặt lấy tay cô, và trợn mắt nhìn cô. Tay của Tần Thư Điền nóng hôi hổi. Bất giác như có một luồng hơi ấm truyền vào người cô, tim cô.

Hai người quét đường đứng nép vào góc tường theo dõi, thấy người đó ì ạch, hậm hụi lồm cồm bò mãi vẫn không đứng dậy được, xem ra như bị gãy xương ở chỗ nào. Tần Thư Điền sợ hãi giật mình, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu anh, cảm thấy đây chính là một cơ hội “lập công chuộc tội” anh liền ghé sát vào tai Ngọc Âm nói mấy câu “cứ như thế như thế mà làm”. Trên cằm anh, râu ria đã được cạo nhẵn nên không còn làm cho mặt người ta bị đau nữa. Hồ Ngọc Âm nghe theo lời anh, liền đẩy đôi tay của anh ra, quay người ra đầu phố quét đường.

Tần Thư Điền nhón chân nhón tay ra giữa phố, sau đó anh bắt đầu quét từng nhát, từng nhát một. Rồi đột nhiên, như phát hiện ra một điều gì đấy, kéo theo chiếc chổi tre chạy vội về phía tường vây có cửa ngách của hợp tác xã cung tiêu, cùng với những câu hỏi liên tục:

- Đứa nào đấy? Đứa nào đấy?

Anh đã chạy tới chỗ cửa ngách trong hẻm, làm bộ giật mình nói nho nhỏ:

- Ôi bí thư Vương, làm sao đi đứng không cẩn thận để ngã ở đây? Thôi dậy đi, dậy đi!

Vương Thu Xá vẫn ngồi phệt mông xuống đống phân trâu, thối hoăng hoắc không sao chịu đựng nổi. Hắn giận dữ chửi bới, nhưng lại không dám chửi to:

- Hai cái đứa phần tử loại 5 chúng mày quét phố mà lại để sót cứt trâu làm ngã người ta.

- Tôi xin nhận tội, tôi xin nhận tội. Nào nào, bí thư Vương tôi, tôi, xin đỡ ông dậy!

Tần Thư Điền lấy tay, nhấc nhấc một cẳng chân của Vương Thu Xá bị kẹt dưới cống ngầm lên.

- Ôi ôi! Đau chết mất! Sái mất cái chân này rồi!

Vương Thu Xá đau đến toát mồ hôi hột.

Tần Thư Điền vội vã đứng xoạc chân, không sợ bẩn sợ thối, hai tay ôm lấy cặp mông Vương Thu Xá đỡ cho hắn ngồi lên bậc cửa. Tần Thư Điền quan tâm hỏi:

- Bây giờ tính sao đây ông bí thư Vương? Về nhà! Hay tôi cõng ông đi trạm y tế?

- Về nhà! Về nhà! Lần này mày có vẻ khá đấy Tần Rồ ạ, cõng tao về nhà thôi. Ái ái! Sau này tao sẽ không quên mày, ối ái...

Vương Thu Xá đau đớn vô cùng, nhưng vẫn không dám kêu to, sợ làm kinh động phố phường.

Tần Thư Điền cong người xuống, cõng Vương Thu Xá đi. Anh thấy thằng chủ nhân ngôi nhà sàn, nặng như một con trâu, tất cả là do dầu do mỡ tích tụ lại trong mấy năm sinh hoạt học tập và vận dụng đường lối chính sách. Chả thế mà đêm nào cũng phá chuồng đi liếm sương đêm và ăn cỏ dại.

- Ông bí thư Vương! Hôm nay ông dậy sớm quá, vận xúi, nên đã gặp con ma xó nào đấy chặn đường vật ngã!

- Câm cái mồm thối của mày lại! Đi nhanh nhanh lên một tý, đừng để người ta nhìn thấy, một phần tử loại 5 lại cõng ông bí thư, thì ảnh hưởng rất không tốt... rồi, rồi mày lên núi hái cho tao mấy nắm lá chuyên rịt vào những chỗ bị đòn đau ấy.

Cả trăm ngày đau gân đau cốt. Chủ nhiệm ngôi nhà sàn nằm bẹp trên giường hơn hai tháng trời. Cũng may mà được những ông lang chân đất ở hợp tác xã đông y mang thuốc đến tận nhà cho, đồng thời vực dậy, giúp đỡ cho một vài công việc. Lý Quốc Hương vì bận bịu với công việc, nên tạm thời chưa bố trí thời gian đến thăm viếng được. Tạm thời ròi khỏi “căn gác sái cẳng” về ngồi chết dí trên ban cách mạng huyện.

Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm vẫn như xưa, dậy thật sớm ra quét phố. Phố Đá Xanh được họ quét sạch như lau như ly. Ban đầu cả hai người đều khoái chí. Hằng ngày vẫn gặp nhau ở cửa nhà trọ Hồ Ký, rồi người nọ nhìn người kia, người kia nhìn người nọ, mặt nóng ran lên, và tim đập thình thình. Sau cái trò chơi khăm Vương Thu Xá, hai người càng ngày càng thân mật với nhau hơn. Và hình như người này không muốn xa rời người kia nữa, trong lòng mỗi người hình như cố kìm nén một nỗi đau khổ khó nói thành lời, một tình cảm day dứt bồi hồi. Có một hôm, vào lúc trời nhá nhem tối, Tần Thư Điền đã mang tới biếu Hồ Ngọc Âm một chiếc áo mặc mùa hè có in hoa chìm, nhạt, đựng trong túi ni lông, bên ngoài buộc một giải lụa đỏ... Trời đất ơi... Cô sợ hết hồn. Từ xưa tới nay cô chưa bao giờ trông thấy chiếc áo vải đẹp tốt như thế. Một người với thân phận như thế này, có xứng đáng mặc nó hay không? Mặc được không? Sau khi Tần Thư Điền ra về, cô rút chiếc áo ra khỏi túi ni lông, mặt vải đẹp, trơn bóng như lụa. Cô không dám mặc thử. Cô ôm chặt tấm áo vào ngực, vùi đầu vào trong chăn khóc suốt cả đêm. Cô ôm chiếc áo như ôm chặt lấy một trái tim nóng bỏng, và có cảm giác rằng mình đang phạm tội. Cô quyết định vào ngày hôm sau, lừa lúc không có ai để ý lẻn ra bãi tha ma, đến phần mộ Lê Quế Quế, thắp cho anh một nén nhang, đốt cho anh mấy tờ giấy tiền, rồi chuyện trò tâm sự với anh, bàn bạc với anh. Sinh tiền, bao giờ Quế Quế cũng nghe theo, làm theo lời cô, yêu cô, chiều cô. Linh hồn Quế Quế chắc cũng phù hộ cho cô, tha thứ và không giận cô, cô mong mỏi ban đêm anh về báo mộng cho cô. Sáng sớm hôm sau khi Tần Thư Điền lại đến gõ cửa, gọi cô đi quét đường, có đến ba bốn lần cô định mặc chiếc áo lên người, rồi cô quyết định mặc vào trong, cho nó dính vào da vào thịt. Ngay cả đến cổ áo cô cũng nhét kín vào trong, để không ai nhìn thấy.

Họ lặng lẽ quét phố Đá Xanh... và rồi trong lúc đang yên đang lành, Tần Thư Điền bỗng quẳng chiếc chổi trong tay đi, dang cả hai cánh tay, mạnh bạo, ôm chặt lấy cô.

- Anh điên đấy hả? Trời đất ơi, anh Tần, anh điên rồi sao? Anh Thư Điền...

Giọng Hồ Ngọc Âm run rẩy, trong mắt tràn đầy lệ... cô thút thít khóc. Cô để Tần Thư Điền ôm cô và vỗ về cô một lúc lâu cô mới gỡ tay anh ra, đẩy anh ra. Cô tiếc nuối, nhưng không thể không đẩy anh ra. Trời đất, thế này là thế nào đây? Cả hai đều là lũ phản cách mạng, là người sống dưới kiếp người, mà còn nói đến chuyện yêu đương được sao, còn có thể có cái tình cảm bình thường của con người được sao? Không được, không được, không được... Cô giận, cô rất giận, cô giận ngọn lửa trong trái tim mình còn chưa tắt hẳn! Tại sao còn chưa dập tắt? Tại sao không biến thành một con người bằng gỗ, một con người bằng đá? Cái ngọn lửa dầy vò con người cô. Cuộc đời đã cướp đi, lột đi của cô tất cả. Cuộc đời đã coi cô như một con hủi, đẩy cô ra khỏi cái vòng của những con người bình thường, đã ghi tên cô vào một danh sách khác, nhưng lại lưu lại cho cô cái ngọn lửa quỷ quái này. Suốt cả buổi sáng, cô vừa quét đường vừa khóc.

Sau khi xảy ra chuyện đó, có đến nhiều buổi sớm liền, họ chỉ biết lặng lẽ quét phần đường của mình, chẳng ai nhòm ngó ai, và trong lòng họ quặn đau. Họ đều khát vọng được sống một cuộc sống của “con người”. Tần Thư Điền vẫn cứ như mọi khi, mỗi sáng sớm, đều đến chờ chực ở cửa nhà trọ Hồ Ký cũ, cho đến khi Hồ Ngọc Âm ra khỏi giường, mở cửa, anh mới lặng lẽ quay người đi... Thời gian như một thầy thuốc của cuộc sống, nó có thể làm vết thương trong tim khép miệng lại, và tiêu diệt được những nỗi thống khổ tuyệt vọng, làm cho những tình cảm khó chế ngự, được trấn tĩnh lại và quên lãng đi. Mặc dù sự trầm tĩnh và quên lãng đó chỉ là tạm thời, ở bên ngoài mặt. Khoảng độ non nửa tháng sau, hình như Tần Thư Điền đã bình tĩnh lại được. Hồ Ngọc Âm đã cười với anh, và đã gọi là “Anh Tần”. Song trong những nụ cười ấy, những tiếng gọi ấy, so với trước kia, nó tràn đầy những nồng thắm, ngọt ngào. Từ đó, hình như họ đã có được một mật ước với nhau, không bao giờ còn nhắc tới cái trọng tội có thể dẫn người ta lên giàn lửa. Với lại, như thế họ cảm thấy tự nhiên hơn, gần gặn hơn. Cuộc sống quay trở lại quỹ đạo cũ. Họ như hai cỗ máy quét đường phố Đá Xanh và không hiểu tại sao mình vẫn sống. Nhưng rồi cảnh đó không duy trì được lâu. Ít lâu sau, Hồ Ngọc Âm bị cảm hàn, sốt cao, nằm trên giường nói mê nói sảng. Khổ cho Tần Thư Điền ở chỗ, mỗi sáng dậy sớm, phải làm công việc lao dịch của hai người, vung chiếc chổi quét từ đầu phố đến cuối phố. Sau đó lại phải phát cái nhúm kiến thức về y dược của mình, lên núi hái dược thảo, sao sắc cho “đồng phạm” uống. Những người ở thị trấn miền núi này đã từ lâu không thèm quan tâm lắm tới cả hai nhân vật này, nên chẳng ai chú ý tới họ cả. Hồ Ngọc Âm ốm nặng đến nỗi chỉ ngồi ngả được ở trên giường, còn tất cả các việc ăn uống thuốc thang đều trông vào đôi tay của Tần Thư Điển cả. Hàng ngày, Hồ Ngọc Âm mắt rơm rớm lệ, bằng giọng nói run rẩy gọi một tiếng:

- Anh Thư Điền...

Người sang có số phận sang, người hèn có số phận hèn. Mất hơn mười ngày Hồ Ngọc Âm mới qua khỏi được, rồi sớm sớm hàng ngày lại đi quét đường.

Một buổi sớm, vào khoảng năm giờ kém, Tần Thư Điền lại đến gọi, đánh thức Hồ Ngọc Âm và hai người lại đi ra giữa phố. Nhưng lúc ấy bỗng sấm chớp ầm ầm, gió như lốc cuốn, sắp có một trận mưa thật to sập xuống. Mùa xuân năm nay mưa quá nhiều. Và họ vẫn cứ máy móc quét đường phố, có điều khác là bây giờ họ song song với nhau, cùng quét phố, mỗi người một bên. Trận mưa to đã bắt đầu ập xuống, bầu trời đen ngòm giống y như trôn chảo bị rỗ lỗ chỗ, sàng cả một cột nước, thành những mũi tên lao xuống.

Hồ Ngọc Âm chợt kéo tay Tần Thư Điền chạy mưa. Họ chạy! Chạy về đến nhà trọ Hồ Ký cũ, hai người đã ướt sũng như gà nhúng nước. Trong nhà vẫn còn tối om. Trên khắp người họ không còn chỗ nào khô ráo. Họ cùng cởi hết quần áo ướt. Họ đem vắt cho ráo nước. Hồ Ngọc Âm trong bóng tối, rét run lên răng đánh vào nhau cầm cập:

- Anh Thư Điền! Anh Thư Điền! Anh lại đây đỡ em một tý, em... em đến chết cóng mất...

- Trời đất ơi, mới ốm dậy, lại nhiễm lạnh nữa rồi. Anh đỡ em lên giường ngủ, chui vào trong chăn cho ấm...

Tần Thư Điền lần mò trong bóng tối, tối đến mức có xòe bàn tay ra cũng không nhìn thấy ngón. Khi đôi tay của anh chạm vào người Ngọc Âm, cả hai đều giật thót ngươi, họ đã quên đi rằng, họ đã cởi hết quần áo trên người.

Mưa to gió lớn, mãnh liệt điên cuồng. Hỡi ông sấm bà sét xin đừng phẫn nộ, xin đừng thét gào... hãy đem màn mây màn mưa, phủ kín lên trên thế gian này. Một đôi tội phạm, một đôi quỷ đen chính trị ở trên dương gian này, nguồn sống trong con người họ còn chưa bị khô cạn đi, đốm lửa trong linh hồn họ chưa bị tắt ngấm, họ vẫn còn có thể bật ra tia sét tình cảm, họ còn tỏa ra ánh sáng của sinh mệnh. Gốc cây khô của tình yêu, gặp gió gặp mưa vẫn bật lên được những cành non lá nõn, vẫn còn nảy ra được một bông hoa còm cõi, kết ra được trái đắng chát chua.