“EM LÀ CÔ GÁI THÔNG MINH” -
HỒ NGỌC ÂM THƯỜNG LẤY LÀM KINH NGẠC THẤY mình có thể sống được, vượt nổi và lại còn có cả tình yêu với Tần Thư Điền. Mỗi lần đem ra đấu tố, đánh đập lôi đi bêu riếu, giáo dục xong, rồi bị áp giải về nhà trọ Hồ Ký, cô đều cảm thấy rằng, cuộc sống của mình thế là đã chấm dứt rồi, chỉ còn dư lại một hơi thở thoi thóp mà thôi. Nhiều khi ngay cả tấm bảng đen trên cổ cũng không thèm nhấc ra, rồi rơi vào giấc ngủ chập chờn, mệt mỏi với nguyên cả quần áo trên người. Nhưng đến sáng hôm sau khi tỉnh dậy, rồi mở to đôi mắt ngạc nhiên gần như không dám tin rằng: Mình còn sống, lạ thật? Tại sao lại chưa chết nhỉ? Cô đưa tay lên, úp vào ngực mình, thấy trái tim vẫn thình thịch, thình thịch đập đều. Điều đó có nghĩa là, cô phải ra khỏi giường, phải ra đường quét rác. Cô tự đầy ải mình, tự thương xót mình, và cô đã từng toan tính rằng, cô sẽ chọn lấy một ngày tốt, một ngày lành nào đó mà tự tử cho rồi, đó là ngày mồng Một hay ngày Rằm. Đúng vậy, chết là sự việc quan trọng cuối cùng của mình, nhất định phải chọn vào ngày lành, ngày tốt. Mà phải chết làm sao cho đẹp. Không thể lấy thừng mà treo cổ lên, không thể đâm một lưỡi kéo vào tim, không thể đi mua thuốc chuột về mà nuốt. Chết như thế là hung, sẽ bị phá trướng. Tốt nhất là đâm đầu xuống sông.
Người ta sẽ vớt mình lên, sẽ đặt cho thật thẳng thắn, gọn gàng, sạch sẽ. Rồi để lên tấm cánh cửa, trông như người nằm ngủ, đầu tóc không bị rối. Có điều, như thế khuôn mặt sẽ bệch bạc ra như tờ giấy trắng, người sẽ bị tím tái lại và trương phình lên. Hồ Ngọc Âm đã từng là người được xếp vào hàng Ngọc Nữ trước mặt Quan Âm Bồ Tát, chết đi cũng phải là một Ngọc Nữ. Sau này có biến thành ma thành quỷ, cũng không đến nỗi khó coi, làm người ta phát sợ.
Do đó cô đã từng mấy lần đi ra chỗ cầu Đá Trắng, bắc ngang trên con ngòi Ngọc Diệp, đứng ngây ra nhìn xuống con ngòi, cầu Đá Trắng cao tới ba, bốn trượng, nước ngòi xanh như một tấm gấm xanh, hai bên bờ ngòi là những vách đá lúc nào cũng ướt dầm dề, trên vách bám đầy những cây lưỡi hổ, dây phượng vĩ và những rẻ mây. Nếu đứng từ trên bờ đá nhìn xuống sẽ thấy trên nước dưới nước, có hai chiếc cầu Đá Trắng, một xuôi một ngược và bốn vách núi. Người đứng ở trên cầu nhìn xuống, bóng in rõ trên mặt nước, rõ đến độ nhìn thấy cả lỗ đồng tiền trên mặt. Cầu cao, bờ dốc, nước sâu. Cho nên triều đại nào cũng có những người đàn bà khốn khổ đến cây cầu này tự vẫn. Dần dà những cư dân trong thị trấn đã đặt cho cây cầu này một tên khác: cầu Cô Nữ. Mỗi lần Hồ Ngọc Âm trèo lên chiếc cầu mang tên “Cô gái cô đơn” này, cúi đầu nhìn bóng mình in dưới nước, cô đau lòng, cô khóc: Ngọc Âm ơi Ngọc Âm, đây chính là cô sao? Cô mà là người đàn bà xấu xa sao? Cô đã làm hại ai? Ở trong thị trấn cô có kẻ thù không đội trời chung nào? Làm gì có! Không có! Cô Hồ Ngọc Âm ở thị trấn còn sợ dẫm cả vào con kiến cơ mà, cô ít khi đỏ mặt lên với ai bao giờ, nói năng cô cũng chưa bao giò lên giọng, bọn trẻ con, cô cũng chưa từng hoạnh họe một đứa nào. Với mọi người cô chưa bao giờ cầu lợi, bạc bẽo, và bủn xỉn. Trước kia cô cũng đã từng giúp đỡ khối người... Thế là thế nào nhỉ! Cô không hãm hại ai, không ghét bỏ ai, không cầu lợi của ai, không thù hằn sống chết với ai, vậy mà người ta lại thù hằn cô, chỉnh đốn cô, đấu tố cô, và coi cô như một con người hèn hạ nhất, ty tiện nhất trên cõi đời này. Làm cho cô ra đường không cất nổi đầu lên, không dám chiềng mặt ra trước mọi người, có muốn cười cũng phải lấm lét nhìn bốn xung quanh... Cô đã mắc cái nghiệp chướng nào, mà rơi vào cái số phận khốn khổ như thế, nhận được sự ứng báo như thế? Cái cuộc đời này đối với cô quá bất công, quá tàn nhẫn! Mỗi khi nghĩ tới đây, cô khóc, khóc ròng, cảm thấy oan khuất, cảm thấy bất bình, và cô vụt có dũng khí: “Mình không chết nữa! Không chết nữa! Tại sao phải chết mới được chứ? Mình phạm cái luật gì, cái tội gì? Tại sao mình lại không sống được nhỉ?”. Cô đứng trên cây cầu “Cô gái cô đơn” mấy lần đều không nhảy xuống nước được. Cô không nên nhìn cái bóng mình in trên dòng nước trong xanh kia mới phải...
Cô cũng đã từng dùng những cách khác để tự hủy hoại đời mình. Đã có lần, ba ngày ba đêm cô không nuốt một tý gì vào bụng. Nhưng mỗi sớm trở dậy cô đều chải đầu, rửa mặt, mỗi tối cô đều tắm táp, thay quần áo. Sáng ngày thứ tư, cô đi quét phố, ngã ngất trên phố Đá Xanh. Lại chính là Tần Thư Điền cõng cô về nhà trọ Hồ Ký, rồi khuyên giải cô như khuyên giải người thân, dỗ dành cô như dỗ dành em gái. Nấu một bát canh trứng bón cho cô ăn. Tần Thư Điền vừa bón cho cô ăn vừa khóc. Chưa bao giờ cô thấy Tần Thư Điền khóc như vậy cả. Con người phái hữu phải đội mũ sắt này dù có phải quỳ trên gạch vỡ để chịu đấu tố, dù có bị đeo bảng đen đem đi bêu riếu, đều cười tít mắt cứ y như đi thăm viếng người thân vậy, như ngồi trong bàn tiệc vậy. Anh lạc quan không biết sầu biết buồn là gì. Thế mà hôm nay, anh đã khóc, vì cô, khiến cho cô lạnh buốt cả con tim, và cảm thấy có một chút ấm áp tình người. Từ nhỏ cô đã là một con người yếu đuối. Cô yếu đuối với người và yếu đuối với mình nữa. Trước kia khi anh Quế Quê còn sống, cô sợ nhất là nhìn thấy, nghe thấy những chuyện đau lòng trong nhà mọi người. Tần Thư Điền, Điền Rồ sớm đã che chở cho cô. Đã có một khoảng thời gian, cô hận Điền Rồ. Cô mơ hồ cảm thấy như nỗi bất hạnh của mình, là do Điền Rồ mang lại. Đó là cái năm cô lập gia đình, Tần Rồ đã đưa lũ yêu tinh ma quái trong đoàn ca múa đến hát ở “sàn hát mừng”, chống phong kiến, làm xúi quẩy lây đến những điều tốt lành trong buổi hôn lễ của cô... Bây giờ hình như muốn chuộc lại, muốn đền bù lại những sai sót của mình. Nhưng sự tổn thất lớn lao như thế, dù có chết đi ba lần, sinh lại ba lần, anh cũng không sao chuộc lại cho được. Thực ra, Tần Thư Điền cũng chỉ là người chung nỗi đau nhân thế, là kẻ tài hoa thương người bạc mệnh, một kẻ oan nghiệt thương một người oan nghiệt vậy thôi. Bên giường bệnh của Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền còn khe khẽ hát bài “Bài ca tiền đồng” trong “sàn hát mừng” cho cô nghe:
Cô em có mấy đồng tiền
Anh ra câu đố, đố em trả lời
Một đồng có bốn góc thôi
Hai đồng, mấy góc? Em thời nói nhanh
Tính cho nhanh, nói cho nhanh
Em là cô gái thông minh trên đời
Tiền đồng, bài hát, hát chơi...
Tần Thư Điền cứ lần lượt hát, từ ba đồng tiền, đến bốn đồng tiền, cho đến hết mười đồng tiền mói thôi. Mỗi khi hát đến câu “Em là cô gái thông minh trên đời, cô gái thông minh trên đời” thì mắt anh lại đẫm nước, lòng quặn đau, chăm chăm nhìn Hồ Ngọc Âm. Đó là có ý gì vậy? “Em là cô gái thông minh”, tại sao em lại đi tự hủy hoại đời mình? Tại sao không tiếp tục sống? Trên thế giới này đâu phải chỉ có một thị trấn Phù Dung. Thế giới này rộng lớn lắm, ngày tháng còn dài lắm em ơi. Hơn nữa sự tồn tại của thế giới này, không thể chỉ dựa vào những phong trào vận động và chuyên làm những việc đấu tranh. Dưới gầm trời này còn có rất nhiều, rất nhiều những sự việc khác. Cô em thông minh, cô gái thông minh ơi, em là cô gái thông minh.
Những bài dân ca cũ kỹ, lời lời là sự kêu gọi, là sự đặn dò, là bài ca số phận. Có lẽ những bài hát cũ kỹ mà người ta hát từ thuở bé, thuộc từ thuở nhỏ, đã làm thức tỉnh lại niềm khát vọng sống của Hồ Ngọc Âm. Cô bắt đều lưu tâm đến con người Tần Thư Điển này. Làm một phần tử loại 5, làm một con người dưới người, mà sao vẫn vui vẻ, tích cực. Cứ như là trong thế giới quỷ đen của anh không có gì là cơ cầu, là nhục nhã, thê thảm vậy. Đi bêu riếu lưu động, bao giờ anh cũng đàng hoàng đi lên đầu hàng, khi tiếp thu đấu tố, không bao giờ đợi người ta phải quát tháo, hoa chân múa tay, anh đã tự động quỳ phịch xuống, với cái đầu cúi gằm. Người ta tát vào má trái anh, anh đã sẵn sàng đợi nốt cái tát nữa giáng xuống bên má phải. Những cán bộ và quần chúng cách mạng ở đại đội sản xuất của thị trấn này bảo anh ngoan cố không sợ chết, là một vận động viên lão thành chai sạn. Mới đầu Hồ Ngọc Âm thấy khinh anh, tưởng rằng anh hèn, dần dần về sau này, do những điều chính bản thân cô lãnh hội được, cô mới biết rằng cách đối phó đó có thể bớt được nhiều sự đánh đập, và giảm được nhiều nỗi khổ đau. Song cô không sao học tập được điều đó. Người ta túm giật tóc cô, vừa mới buông tay ra, cô đã đưa tay lên vuốt vuốt lại, chải chải lại, không sao nín nhịn được. Người ta ấn vào cổ cô, bắt cô khom lưng xuống 90 độ, nhưng cô vẫn thẳng lưng, xốc lại vạt áo, cài cẩn thận lại khuy áo. Người ta bắt cô quỳ, khi cho đứng dậy, cô lập tức lấy tay phủi thật sạch bụi đất bám trên hai đầu gối. Chính vì cái thói quen,đó mà cô đã bị ăn không ít những trận đòn, muốn sửa nhưng cô không sao sửa được. Có người bảo rằng: “Con mẹ phú nông mới này rất ngoan cố”. Những lúc như thế, cô chỉ muốn chết quách đi cho xong tội nợ, chẳng còn ai nhiếc móc được mình, tố được mình nữa.
Sở dĩ cô còn sống được, là vì có một sự việc ghê gớm đã giữ chân cô lại. Ấy là cái hồi, bọn nam nữ hồng vệ binh bất chấp giời đất, pháp luật, không biết từ đâu kéo đến, nói giọng Bắc hoặc có pha thêm một ít giọng Trường Sa, cũng túm luôn cả cổ bí thư công xã Lý Quốc Hương, lại còn quàng thêm một đôi giầy rách lên cổ dẫn đi bêu riếu! Thế là thế nào nhỉ? Quả thật là thế giới rộng lớn, nên những chuyện lạ lùng, kỳ quái, chưa từng trông thấy, chưa từng nghe thấy cũng rất nhiều. Thì ra là mày đấu tao, tao đấu mày, đấu tố kẻ khác và đấu tố luôn cả mình nữa... Hôm đó sau khi bị đem đi bêu riếu lưu động trở về, không hiểu sao, tự nhiên lòng cô cảm thấy vui vui. Thật bậy bạ, đi vui mừng trước tai họa của người khác. Cô đi rửa mặt, rồi đi soi gương. Cái gương đó là của mẹ cô để lại cho cô. Hồi “bốn thanh tra” chỉ tịch thu của cô cái nhà lầu, còn cái cửa hàng cũ này vẫn để lại trả cô. Có đến hai ba năm nay cô sợ, không dám soi gương. Cô thấy rằng mình đã già đi rất nhiều, trên trán, rồi khóe mắt, khóe môi, đều đã hiện lên những nếp nhăn chân vịt (nguyên văn: đuôi cá). Nhưng cả khuôn mặt của cô vẫn chưa có gì thay đổi, tóc vẫn đen nhưng nhức, vừa dầy dặn, vừa mềm mại. Đôi mắt vẫn vừa to, vừa sáng, đôi má vẫn đầy đặn, bóng bẩy. Chính cô cũng lấy làm lạ. Thậm chí có lúc cô còn nghĩ lung tung vớ vẩn rằng: Ừ nếu Lý Quốc Hương nhấc cái mũ quan cách của mụ ra, và bỏ chiếc mũ phú nông của mình xuống, rồi thử so sánh xem! Cứ cho một trăm người đàn ông, nhắm mắt lại, rồi sờ nắn, chọn lựa thì cái con lắng lơ, đĩ thõa ấy ra rìa...
Có khi cô đi ngủ sớm, nhưng không ngủ được. Trời rất nóng bức, cô cởi bỏ hết quần áo, nằm thẳng trên giường. Theo thói quen, hai tay cô che mặt như xấu hổ, rồi sau đó, cô từ từ đưa tay sờ lần xuống dưới cho tới ngực thì dừng lại. Ngực đẫy đà, cao vòi vọi, y như hai trái núi con. Cô bực bội, làm sao mà nó vẫn cứ như cô gái vừa mới lấy chồng, ghét quá, cô bực bội vì không biết làm thế nào cho nó phẳng tẹt đi. Nhưng nó vẫn không phẳng tẹt. Như vậy đâu phải phần tử loại 5? Những phần tử loại 5, ai ai cũng phải gấp bụng, khom lưng, chân tay phải như cành củi khô, bộ ngực phải teo tóp, thê lương như bãi cỏ hoang mùa rét. Trông chừng chỉ có cô và Tần Thư Điền là còn ra dáng con người. Từ đó về sau, cô lại bắt đầu soi gương theo thói quen. Đôi khi ngồi soi gương, cô bất chợt thấy buồn tủi và tự dày vò mình, cô khóc rất lâu trước gương. Tại sao cô khóc? Cô khóc vì trong trái tim cô vẫn còn ngọn lửa leo lét cháy, không chịu tắt. Cô mong sao cho ngọn lửa ấy sớm tắt ngấm đi.
Vào cái sớm sấm sét, mưa to gió lớn ấy, cái buổi sáng, tối om om, đến nỗi xòe tay không trông thấy ngón ấy, cô và Tần Thư Điền ướt sũng, không còn một sợi vải nào khô, và ông trời già đã vo tròn, đã tác thành cho mối oan nghiệt của họ... Ngàn vạn sự việc trên cõi trần thế này, bao giờ cái “đầu tiên” cũng đều đáng quý. Có được cái đầu tiên, không còn phải lo gì đến cái thứ hai. Làm được cái thứ nhất, thì có thể làm được cái thứ mười lăm. Sự cảnh giác của những người ở thị trấn chỉ đổ vào mặt chính trị. Cuộc đấu tranh giai cấp, quả thật là không có gì không sờ mó tới, không có kẽ ngách nào là không thọc vào, nhưng nào có ai nghĩ tới hai kẻ tội vạ “phần tử loại 5” làm công việc quét rác ở phố Đá Xanh lại có thể sinh ra cái sự sung sướng giữa đàn ông và bất cứ lúc nào đều có thể có một bàn tay hộ pháp, tách chẻ họ ra, và suốt đời suốt kiếp sẽ không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa. Họ đang cướp thời gian. Chỉ có những đời sống dị dạng, mới có tình yêu dị dạng. Họ đều hiểu rằng, cái kiểu to gan lớn mật này, là một sự thách thức, một sự phản loạn đối với số phận chính trị và đẳng cấp xã hội của họ. Tối đến, xưa nay họ không bao giờ đốt đèn. Họ đã quen sống như thế, thậm chí còn thấy thích thú khi được sống với nhau trong bóng tối. Hồ Ngọc Âm bao giờ cũng gối đầu tay của Tần Thư Điền mà ngủ. Có khi nằm mê cô còn gọi “Quế Quế, Quế Quế”. Tần Thư Điền không giận cô, mà hình như còn đáp ứng, làm như mình là Quế Quế vậy. Quế Quế còn chưa chết, vẫn chiều chuộng, vẫn thương yêu vợ mình. Linh hồn của Quế Quế đang nhập vào người anh Thư Điền. Anh Thư Điền đôi khi vẫn lẩm nhẩm hát những bài trong “sàn hát mừng” cho Ngọc Âm nghe. Tất cả một trăm linh tám điệu với hai trăm lời thơ, bài nào cũng là chống phong kiến. Bài nào anh cũng nhớ được và hát được hết. Hồ Ngọc Âm rất khâm phục trí nhớ của anh, và giọng hát của anh.
- Ngọc Âm chính giọng em mới thật là hay. Cái năm ấy, anh đã đưa các diễn viên tới vừa sưu tầm vừa chỉnh lý “sàn hát mừng”, dáng người em thướt tha yểu điệu, giọng trong như ngọc, bọn anh rất muốn lấy em vào đoàn văn công đi biểu diễn. Nhưng mới mười tám tuổi em đã đi lấy chồng, thành gia thất.
- Tất cả đều là cái số. Nếu có gì đáng trách thì cần trách bọn các anh, đã mượn chuyện cưới xin của người ta để diễn tập tiết mục của mình, tiền đầu ngắt ngọn... Em và anh Quế Quế cái số nó khổ?
- Lại khóc! Sao em khóc? Ôi, tất cả là tại anh... tại anh hay nhắc lại chuyện cũ, làm cho em khóc.
- Anh Thư Điền, em chẳng trách anh đâu. Chính là lỗi ở em. Em nặng căn, mệnh bạc. Thôi em không khóc nữa, anh hát một bài trong “sàn hát mừng” cho em nghe đi.
Tần Thư Điền cất tiếng hát:
Chị tôi đẹp tựa áng mây,
Nắng lung linh chiếu, má hây hây hồng.
Ngày mai chị đi lấy chồng
Như loan sánh phượng, như rồng sánh mây.
Chiếu kia hợp với giường này,
Như sênh hợp phách, như dây hợp đàn.
Động phòng, chén rượu giao hoan,
Mà sao chén rượu chứa chan lệ nhòa?
Chị tôi như áng mây ngà,
Gió bay, mưa cuốn biết là về đâu?
Hồ Ngọc Âm bất giác hát theo, hòa theo. Tiếng hát của họ rất nhỏ ngoài đường phố khó mà nghe thấy được. Họ hát, có khi lời bài hát chẳng giống nhau, điệu hát cũng khác nhau. Hồ Ngọc Âm hát là hát lời cũ điệu cũ, còn Tần Thư Điền hát lại là lời là điệu mà anh đã cải biên, chỉnh lý, đúng là đại đồng tiểu dị. Hát tới những chỗ không khớp nhau, họ chỉ hẩy hẩy nhau, nhìn nhìn nhau, mà không ai sửa chữa cho ai. Ai bảo rằng họ chỉ có toàn đau khổ, không có hạnh phúc? Họ giống tất cả những người yêu nhau chân thành trên thế gian. Họ đang được uống dòng sữa ngọt ngào nhất, được uống chén quỳnh tương quý giá nhất trong cõi nhân sinh. Họ thích hát những bài hát của họ:
Dưới gầm trời, đường đi trăm lối,
Chín chín đường, lặn lội sẽ qua,
Một con đường chết phía xa,
Xin đừng dẫn chị tôi qua đường này.
Gả cho thằng khoèo tay, ngoẹo cổ,
Cũng phải theo, đừng có lu loa
Gả cho gà, phải theo gà
Gả cho chó, cũng phải ra nằm chuồng...
Ván kia giờ đã nên thuyền;
Gạo kia đã thổi thành cơm trong nồi.
Mẹ cha tám chữ, dưỡng nuôi,
Nước trong, nước đục lẫn trôi một dòng.
Khóc thương, tiễn chị theo chồng,
Làm sao giải được nỗi lòng chị đau?
Ngày tháng của những con người mang tội, giống như một dải băng đen dài, trải về phía trước không ngừng không nghỉ. Có lẽ là vào khoảng cuối mùa xuân, bước sang đầu mùa hạ, Hồ Ngọc Âm bắt đầu thấy người mỏi mệt, bụng ngâm ngẩm đau, buồn nôn, sợ dầu mỡ, thích ăn những của chua. Lấy củ cải muối, dưa muối, từ mùa đông năm ngoái ra ăn mãi mà không biết chán. Mới đầu cô chẳng hiểu nó ra làm sao. Về sau cô bất chợt nghĩ đến chuyện “bụng to”, “có tin mừng”. Cô suýt nữa ngất đi. Thật là vừa sợ, vừa mừng, muốn cười, lại muốn khóc. Trước kia quá mù ra mưa, đã chẳng còn mong ước hão huyền gì nữa, thì cái “tin mừng” lại im lìm, lặng lẽ, lững thững mà đến muộn, hơn nữa, nó lại rơi đúng vào cái năm tháng, sống dở chết dở, cùng cái quan hệ trái khoáy này. Tại sao nó lại không đến sớm hơn? Giá như, nó đến vào cái lúc bán canh bánh tráng có hơn không. Khi ấy, cứ đẻ lấy ba bốn đứa liền, ngôi nhà lầu cũng sẽ chẳng dựng được lên. Nuôi thêm ba, bốn miệng trẻ, cô sẽ trở thành một hộ khó khăn, lúc ấy còn xin chính phủ trợ cấp, cứu tế là khác. Khi có người nối dõi, anh Quế Quế cũng sẽ không phải bước vào con đường tủi nhục ấy. Một người được làm cha, là phải sống cho lũ con cái mình?... Ông thầy bói đoán rằng cô sẽ “không có con”. Vậy mà nay “con” đã đến, dù rằng đến muộn, đến không đúng lúc. Là họa hay là phúc? Cô bàng hoàng lo sợ. Nhưng cô đã chấp nhận một cách tự nguyện mọi đắng cay tủi nhục đến với cô do chuyện đó sinh ra, thậm chí cô phải trả giá bằng tính mệnh của mình. Vì chuyện không sinh nở, người đời đã hất lên người cô biết bao nhiêu là nước bẩn nước nhơ. Ngay chính bản thân cô, cũng cho rằng việc sinh con đẻ cái, là công việc hàng đầu của ngươi đàn bà. Từ xưa tới nay, bao giờ cũng là “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (trong ba tội bất hiếu, tội không có con nối dõi là lớn hơn cả).
Hồ Ngọc Âm không báo ngay cái tin “vui mừng” đó cho Tần Thư Điền biết. Cái chuyện đó là quan trọng lắm, cần phải nắm cho đầy đủ, biết cho chắc chắn, rồi mới nói với anh ấy được. Đối với Tần Thư Điền cô càng ngày càng dịu dàng hơn, việc gì cũng nhất nhất theo lời anh. Cô luôn làm những món ăn ngon cho anh ăn, mời anh ăn, còn mình lại chẳng nỡ ăn, như khen thưởng cho một người anh hùng, lập được công trạng lớn. Tấm lòng si của một người đàn bà là như vậy. Đồng thời Hồ Ngọc Âm lại như một người đón chờ một ngày lễ tôn giáo thần thánh sắp tới, cần phải thật chay tịnh, nên cô không cho Tần Thư Điền ăn nằm với mình nữa, khiến cho Tần Thư Điền thấy mình như bị rơi vào một tầng sương mù dầy đặc. Cô thích được ở một mình ở trong nhà trọ Hồ Ký, yên ổn thoải mái nằm thẳng lên trên giường, không che đắp bất kỳ một thứ gì lên người, rồi với đôi tay nhè nhẹ, xoa xoa lên bụng mình, để xem xem cái sinh mệnh bé bỏng kia đang nằm ở góc nào... Cô sung sướng lắm. Trong cặp mắt cô tràn đầy những giọt nước mắt mừng vui và hạnh phúc. Kể từ khi anh Quế Quế qua đời, cô chưa bao giò thấy mình hoan hỷ đến thế, cô cảm thấy cuộc sống của mình tốt đẹp biết bao nhiêu, có ý nghĩa biết bao nhiêu. Thật là ngu ngốc khi trước kia chỉ nghĩ đến cái chết, chết. “Em là cô gái thông minh”. Quẩn như thế, làm sao mà gọi là “cô gái thông minh” được?
Qua tròn một tháng, sau khi cô đã biết chắc rằng mình có mang, và đồng thời cũng là cô để cho mình được hưởng thụ cái tin bí mật ngọt ngào đó một mình tròn một tháng xong, rồi vào một buổi sớm mai, cô mới đem việc “có tin mừng” ra nói cho Tần Thư Điền biết. Tần Thư Điền như người chợt tỉnh mộng, lúc ấy anh mới hiểu được cái nguyên do tại sao, cô đối xử với anh vừa gần gũi lại vừa xa xôi đến thế. Anh quẳng phăng cái chổi trong tay, đứng ngay giữa phố mà kêu lên “Trời ơi, trời ơi”, rồi ôm chầm lấy Hồ Ngọc Âm, vừa cười vừa khóc. Hồ Ngọc Âm vội chặn ngay niềm vui điên dại đó của anh lại. Khóc khóc, cười cười mà không xem xem mình đang ở chỗ nào và trong trường hợp nào.
Tần Thư Điền vùi mặt vào ngực Hồ Ngọc Âm nói như trong cơn mê sảng:
- Ngọc Âm, anh em mình lên đại đội sản xuất, lên công xã thú tội, rồi xin đăng ký kết hôn. Đây là một việc anh không dám nghĩ tới...
- Liệu người ta có đồng ý cho không? Hay là rồi tội sẽ chồng lên tội?
Hồ Ngọc Âm bình tĩnh đáp. Bởi cô đã nghĩ đi nghĩ lại tất cả mọi sự rồi. Cô không sợ và cô rất yên lòng.
- Anh em mình cũng là người chứ. Thử hỏi có văn kiện nào rồi điều nào, khoản nào, quy định rằng những phần tử loại 5 không được phép kết hôn?
- Nếu họ cho phép mình đăng ký thì tốt quá còn gì. Nhưng em sợ rằng trong những ngày tháng như thế này, mắt mọi người đỏ đọc lên như những con trâu điên, chỉ biết tính thù, ghi hận... Mặc xác họ. Anh Thư Điền ạ, anh chẳng nên phiền não làm gì. Bất kể rằng họ ra làm sao, đồng ý hay không đồng ý, con vẫn là con mình. Em cần, là em cần, thế thôi!
Hồ Ngọc Âm vừa nói, vừa gục đầu vào ngực Tần Thư Điền, run rẩy và bắt đầu khóc. Vì hình như ngay lúc đó, có người vươn đôi bàn tay to lớn, khủng khiếp, cướp giật lấy cái thai nhi chưa được chào đời trong lòng cô mang đi mất.
Tất nhiên rằng, trong cái buổi sáng hôm ấy, phố Đá Xanh chỉ được quét qua loa nham nhở. Và cũng bắt đầu từ sáng hôm đó, Tần Thư Điền, gánh vác cái trách nhiệm của một người làm chồng, cô không phải dậy sớm đi quét đường nữa. Ngọc Âm cũng hơi có chút “làm nũng”, cũng muốn được “ngủ muồn muộn”, giống như tất cả những người “thai nghén” khác, đâm ra “khó tính”, vì sắp sửa sinh con. Tần Thư Điền lại nửa như vô tình, nửa như hữu ý, để cho bà con hàng phố biết rằng: Hồ Ngọc Âm đã là người của nhà họ Tần, và cái phần việc ở ngoài phố, phải do chính anh chàng họ Tần ấy quét tước, đảm nhiệm!