NGƯỜI VÀ QUỶ -
BÍ THƯ VƯƠNG THU XÁ BỊ QUÈ CẲNG bên dưới bức tường vây của hợp tác xã cung tiêu, nằm dài hai tháng không ra khỏi cửa. Lý Quốc Hương khi đến kiểm tra công tác thị trấn Phù Dung, tiện đường rẽ vào ngôi nhà sàn thăm hắn, nói được vài câu có tính chung chung đại loại như: cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi sẽ khỏi dần, cũng chẳng nên vội vã gì. Với cái chân sưng to như thùng nước nhỏ của hắn, cũng chỉ nhìn qua, không thèm mó tay vào xem xét, chẳng có một chút tình cảm quan tâm thương xót nào:
- Cái chân anh làm sao thế?
- Tại sáng sớm tôi đi không cẩn thận.
Nếu như mụ là người đàn bà khác, chưa biết chừng Vương Thu Xá đã tung ra những lời chửi bới và trách móc mụ là quân vô tình bạc nghĩa, là kẻ tàn nhẫn lạnh lùng rồi cũng nên. Tục ngữ có câu: “Một đêm chồng vợ, trăm ngày nhớ”, mà nào chỉ có một đêm. Còn có lời tục tĩu và cái trò hề nào là không nói, không làm? Nhưng đối với một nữ thượng cấp, hắn lại cảm thấy rằng: Hắn đã được “ban ơn”, cấp trên đã coi trọng hắn và vô hình trung đã nâng cao được giá trị của bản thân mình lên. Nữ thượng cấp đến thăm hắn một lần như thế cũng đủ có ý nghĩa rồi, lẽ nào lại đi đòi hỏi ở cấp trên, một người đường đường chính chính là ủy viên thường vụ ban cách mạng huyện, chủ nhiệm công xã đâu lại giống mấy con mẹ ngoài đường, ngoài phố chưa chi đã chảy nước mắt, nước mũi ra? Nữ thượng cấp bình thường như thế, mới thực nói lên cái phong độ và cái tài trí của mình. Mình cần phải lấy đó làm gương mà học tập, để có được cái bản lĩnh trên dưới chu toàn và trước sau kín kẽ mới hay.
Hôm đó, trong khi Vương Thu Xá đang chống cái nạng tập tễnh đi đi lại lại ở trước cổng ngôi nhà sàn để hoạt động cái gân cái cốt, cho huyết mạch lưu thông, thì tên phái hữu, đội mũ sắt Tần Thư Điền chạy đến, hai tay nâng tờ giấy “thú tội”, cúc cung chào hắn. Hắn dừng lại, đứng tựa lên chiếc nạng, cầm lấy tờ giấy “thú tội” đọc, và kinh ngạc khiến cái bộ mặt tròn phèn phẹt của hắn trông như quả bí đỏ, miệng hắn há hốc ra mãi không khép lại được, và mắt thì chớp chớp lia lịa:
- Cái gì? Cái gì? Anh và cái con quả phụ phú nông Hồ Ngọc Âm xin đăng ký kết hôn?
Tần Thư Điên cúi đầu rất lễ phép nói:
- Dạ, thưa Vương bí thư, dạ...
Rồi để tạo ra một không khí hòa hoãn, anh lại cung cung, kính kính hỏi:
- Dạ, chân của Vương bí thư đã khá lắm rồi phải không ạ? Có còn cần tôi vào núi đào một ít ngưu đằng với điếu mã đôn không ạ?
Cặp lông mày trên khuôn mặt phì nộn của Vương Thu Xá nhíu lại, còn cặp mắt thôi không chớp nữa mà nhíu lại thành hai hình tam giác nhỏ. Cách nhìn của hắn đối với cái anh “phái hữu đội mũ sắt” này cũng khá là phức tạp. Trong cái buổi sáng sớm xúi quẩy ấy, mình bị ngã ngồi phệt mông vào cái đống phân trâu nhão nhoét kia, chính Tần Thư Điền là người đến cõng mình về nhà, và cũng coi như hắn giữ được bí mật cho mình, mà lại còn nói được những câu hay hay: Bí thư đại đội đi thăm lúa sớm quá, bước lỡ chân, bị thụt xuống cống, nên ông ấy bị đau chân. Vì thế mà đại đội đã chấm cho hắn công nghỉ ốm, thanh toán tiền thuốc men... Nhưng còn Hồ Ngọc Âm, đến nay mà nói, vẫn là một mẹ quả phụ trẻ, cóc cần đời, trong chỗ riêng tự, Vương Thu Xá cũng từng nghĩ đến chuyện tòm tem với Hồ Ngọc Âm, nhưng do có quan hệ lòng thòng với nữ chủ nhiệm, nên, hắn luôn luôn bị bó chân, bó tay, thế rồi sự đổi thay quá lớn, cuộc đời cũng như cái ống kính vạn hoa. Một người con gái sắc nước như thế, từ tay một thằng đồ tể đần thối đần thiu, lại rơi vào những cặp vuốt đen của thằng Tần Thư Điền.
- Bọn mày, bọn mày... đã sâu nông đến đâu rồi?...
Chủ nhân ngôi nhà sàn, nhìn Tần Thư Điền bằng cặp mắt ra vẻ biết tỏng mọi việc riêng tư và giấu giếm của họ rồi.
Tần Thư Điền làm bộ mặt dầy mày dạn, cười cười đầy vẻ bợ đỡ nói:
- Việc này tất nhiên là không giấu nổi cặp mắt tinh tường của Vương bí thư rồi...
- Mẹ kiếp... Thế chúng mày bắt đầu với nhau từ bao giờ hử?
- Cũng không rõ lắm ạ, tôi xin thành khẩn với thượng cấp, cứ mỗi sáng sớm chúng tôi quét đường phố Đá Xanh, quét đi quét lại, cô ấy là một quả phụ, tôi là một người độc thân, nên cũng có những đòi hỏi giống nhau.
- Thật đúng là sọt rách gặp đòn gánh giập. Thế đã ấy với nhau bao nhiêu lần rồi?
- Không... không dám ạ, không dám ạ. Thượng cấp chưa cho phép, đâu dám ạ.
- Đến chết cũng vẫn chối quanh! Cái việc ấy mày giấu được ai? Hơn nữa cái con ấy, lại không biết đẻ đái, người lại nõn nà, mơn mởn, thật đúng là mỡ để miệng mèo?
Tần Thư Điền nghe tối đó, mặt hơi hơi đỏ lên:
- Xin thượng cấp đừng chê cười chúng tôi. Nồi tròn vung tròn, nồi méo vung méo (nguyên văn: gà với gà, phượng với phượng), đại đội xem có thể cấp cho chúng tôi một cái giấy chứng nhận để chúng tôi ra công xã đăng ký...
Vương Thu Xá chống nạng, tập tễnh, đi đến chỗ có khối đá xanh, ngồi xuống, đôi lông mày trên khuôn mặt tròn béo phệ, nhíu lại, cặp mắt nheo nheo thành hai hình tam giác nhỏ. Hắn lại đọc lại tờ giấy “thú tội”, như gặp phải một vấn đề khó khăn trong chính sách:
- Hai đứa phần tử loại 5, lại xin đăng ký kết hôn... Không biết luật hôn nhân có quy định điều này không? Hình như chỉ nói đến chuyện những công dân đủ mười tám tuổi trở lên, và có quyền lợi chính trị... Nhưng lũ bay đâu có được tính là công dân? Chúng bay là đối tượng của chuyên chính, là cặn bã của xã hội!
Tần Thư Điền cắn môi, nụ cười nịnh bợ trên môi đã biến mất, và nói những điều cực kỳ khó nghe:
- Thưa ông Vương bí thư, chúng tôi, chúng tôi vẫn phải được tính là một con người chứ! Dù có xấu, có đen thêm nữa thì vẫn là con người. Dù không tính chúng tôi là người, mà tính là gà mái gà sống, ngỗng đực ngỗng cái, cũng không thể cấm chúng tôi kết hôn được!
Vương Thu Xá nghe vậy bật cười lên sằng sặc, cười đến chảy cả nước mắt nước mũi ra:
- Này mẹ kiếp, Tần Rồ, tao đâu có tính chúng mày là lũ súc sinh, trong cả nước Trung Quốc đâu cũng chỉ có một chính sách, mày đừng có nói những lời khó nghe như thế. Thôi, bây giờ thế này nhé. Lần này, ông Vương nới tay cho mày nghe không, tao sẽ cầm giấy “tự thú” này của chúng mày đưa cho ban cách mạng của đại đội nghiên cứu, sau đó sẽ đưa lên công xã xin phê chuẩn. Nhưng tao cũng phải nói cho mày biết trước rằng, trung ương vừa mới gửi công văn về, phong trào “một phê, hai đấu” sắp bắt đầu, để thanh lọc đội ngũ giai cấp, cho nên có được phê chuẩn hay không, là tao không dám hứa chắc đâu đấy!...
Tần Thư Điền bàng hoàng lo sợ, nài nỉ Vương Thu Xá:
- Thưa bí thư Vương, việc của bọn chúng tôi, mong cán bộ lãnh đạo, lên công xã nói cho một tiếng... chúng tôi đã có... đã có...
Vương Thu Xá trợn tròn mắt, dộng dộng cái đầu nạng xuống đất:
- Có? Chúng mày có cái gì hử?
Tần Thư Điền cúi đầu xuống. Anh quyết định nói toạc mọi sự ra, tế sớm khỏi ruồi, cho Vương Thu Xá biết trước để liệu đường:
- Chúng tôi, đã có... chuyện ấy rồi...
Quả nhiên, khi Vương Thu Xá nghe thấy vậy, hắn bực bội nhổ phì một bãi nước bọt xuống đất:
- Hai cái đứa dối trá chết tiệt chúng mày! Giang sơn đã khác, mà bản tính vẫn nguyên. Đã là kẻ thù của giai cấp, mà vẫn còn gây chuyện lôi thôi... Cút mẹ mày về đi. Ngày mai tao sẽ cho người mang đến cho mày một đôi câu đối viết trên nền giấy trắng, để chính tay mày phải đem dán ở cửa nhà trọ Hồ Ký!
Đứng dưới mái hiên thấp, ai chẳng phải cúi đầu? Đời sống đảo lộn, tiền dâm hậu thú, cái tội đó đang đè nặng lên số phận tình yêu của họ. Ngày hôm sau, đại đội bộ đã cho dân quân, đem một đôi câu đối trắng đến giao cho Tần Thư Điền. Anh vui mừng khôn xiết kể như đã tìm được một cơ hội sống, anh đi đến nhà trọ Hồ Ký tìm Hồ Ngọc Âm. Hồ Ngọc Âm đang đun nước ở dưới bếp, nhìn thấy đôi câu đối trắng, cô òa khóc.
Việc dán câu đối trắng, là một phong tục mới, mới được bắt đầu từ ngày tiến hành phong trào càn quét “bốn cái cũ”. Đó là một cách trị tội, và cảnh cáo những tên trèo tường khoét ngạch, trộm chó trộm gà, đưa công khai những tội lỗi của chúng ra trước dân chúng, coi như một biện pháp thực hiện cách mạng hóa những kẻ thối tha nhơ bẩn trong quần chúng cách mạng.
- Ngọc Âm, em đừng khóc, hãy xem xem đôi câu đôi này viết những gì đã nào. Nó chỉ có lợi cho chúng ta chứ chẳng có hại gì hết...
Vừa nói Tần Thư Điền vừa mở đôi câu đối ra:
- Đây là giấy trắng mực đen của cán bộ đại đội nhé, vô hình trung họ đã công nhận quan hệ của chúng mình rồi. Em xem, vế trước là “Hai con chó đực cái”, vế sau là “Một cặp vợ chồng đen” bức hoành là “Tổ quỷ”, “Một cặp vợ chồng đen”. Kệ mẹ chúng nó, đỏ, trắng, đen, rồi tổ người, tổ quỷ gì gì đó, như vậy có nghĩa là đại đội đã tuyên bố trước bàn dân thiên hạ rằng chúng ta là “vợ chồng”! Đúng thế không?
Tần Thư Điền đúng là một con người quỷ quái. Hồ Ngọc Âm nín bặt. Đúng thế thật, anh Thư Điền đúng là một con người khôn ngoan.
Tranh thủ được sự đồng tình của Hồ Ngọc Âm, Tần Thư Điền mới đi múc nửa muôi nước cháo, đem đôi câu đối trắng dán thật ngay ngắn trên cửa ra vào.
Cái tin cửa nhà trọ Hồ Ký có dán một đôi câu đối trắng lập tức làm rung động thị trấn Phù Dung. Người lớn, trẻ con đều đô xô đến xem, và bàn bạc cái hay cái dở của đôi câu đối:
- “Hai con chó đực cái”, “Một cặp vợ chồng đen”. Hay! Hay! Rất chi là phù hợp với thực tế.
- Thì cũng phải thôi. Một đằng là quả phụ hơn ba chục tuổi. Một đằng là một người sống độc thân ngót bốn chục... “Ban ngày xin tý lửa nấu ăn, ban đêm xin ủ chân cho ấm!”.
- Ơ họ lấy nhau mà không biện bữa chén à?
- Thử hỏi, có biện bữa chén đi nữa, thời ai dám đến mà đánh chén nào?
- Ôi dào! Làm người mà phải đến cái bước này, e rằng đó là báo ứng từ kiếp trước mất!
Người trong thị trấn coi sự kiện này là một loại tin tức đầu hạng khi lên đồng xuống ruộng, lúc trà dư tửu hậu, mọi người bàn bạc xôn xao có tới gần nửa tháng trường. Chỉ riêng Cốc Yến Sơn đang được đeo cái danh hờ là phó chủ nhiệm cửa hàng lương thực, có đến cửa xem đôi câu đối, với bầu rượu ngang hông, là không nói câu nào.
Những lời bán tán của dân phố giống như một lời nhắc nhở Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm. Vào một buổi tối, khi tất cả mọi nhà ở phố đều sớm đã đóng hết cửa, hai người đã chuẩn bị hai chai rượu nho, một mâm cơm với ngót mười món ăn ngon lành, và bên dưới mỗi chiếc cốc rượu của mỗi người đều có lót một tờ giấy hồng điều, coi như làm lại một nghi lễ chính thức, uống chén rượu hợp hoan. Tuy rằng công xã còn chưa phê chuẩn cái tờ giấy “thú tội” của họ, nhưng họ đã tính rằng người ta cũng chẳng thấy thích thú gì cái sự kết hợp của loại người này. Người cảm thấy thích thú nhất lại là chính họ. Dù thế nào đi nữa thì: Gạo cũng đã thổi thành cơm, nước trong nước đục chảy hỗn độn vào một dòng, cán bộ đại đội, cùng bà con phố phường trong thị trấn đều đã biết cả rồi. Con vật, tụ lại theo đồng loại, con người lại chia ra mà sống. Quỷ đen sống với quỷ đen, cũng chẳng vướng víu gì cho ai.
Trên mặt Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm cũng đã ửng lên đôi chút màu hồng và tươi tỉnh, họ cũng cung kính trang trọng uống chén rượu hợp hoan... Giữa lúc đó có tiếng gõ cửa cộc cộc. Tiếng cộc cộc gõ cửa vẫn vang lên, nhưng lại không nghe thấy có tiếng người gọi. Tần Thư Điền lấy lại tinh thần, nói nhỏ vào tai Hồ Ngọc Âm:
- Em có thấy tiếng gõ cửa rất lạ không, nếu là dân quân đến áp giải chúng ta như mọi khi thì chúng réo gọi quát tháo rầm rầm lên ấy chứ, nào là đá chân, nào là nện báng súng, cửa phải rung lên bần bật cơ...
Lúc ấy Hồ Ngọc Âm cũng đã lấy lại được tinh thần, gật gật đầu. Đàn ông bao giờ cũng là đàn ông, gặp việc là phải đứng ra giải quyết, không hoảng hốt:
- Để anh ra mở cửa.
- Vâng.
Tần Thư Điền cố làm vẻ mạnh dạn, ra mở cửa, và anh đã giật mình kinh ngạc, vì người gõ cửa lại là “Đại Binh phương Bắc” Cốc Yến Sơn! Trên tay ông xách một chiếc hộp giấy, ngang hông đeo một bầu rượu. Điều đó quả thật là quá bất ngờ. Tần Thư Điền vội vã đón ông vào nhà, cài cửa lại, ngồi vào bàn tiệc. Ông Cốc cũng không hề làm khách, phân biệt gì, ông ngồi luôn vào bàn...
- Cả buổi sáng lẫn buổi chiều, tao cứ thấy chúng mày lén lén lút lút, lúc đi mua cá, lúc đi cân thịt giá cao, tao tự bảo tao phải đến kiếm một chén rượu vui! Bây giờ ở thị trấn, ai ai cũng cho tao là con sâu rượu, lúc nào cũng say khướt... Tao nghĩ, tao nghĩ... chắc chúng mày cũng chẳng đi tố cáo tao, chẳng đi bẩm báo tao... Còn chúng mày, cứ như tao nghĩ, cũng chẳng phải phần tử loại 5 chính hiệu đâu... Chuyện cưới nhau, chuyện cả một đời, mà nhiều nhất cũng chỉ có hai đứa chúng mày...
Hai vợ chồng đen này nghe nói vậy, đều bất chợt ứa nước mắt, và cùng một lúc, cả hai đều quỳ xuống cúi lạy trước mặt Cốc Yến Sơn. Trong cái thế giới hễ cứ động một tý là “mày chết tao sống” này, vẫn còn có người tử tế. Lòng từ thiện, tình đồng loại vẫn chưa phải là tuyệt tích...
Cốc Yến Sơn lấy giọng người trên, có pha một chút men la đà:
- Đứng dậy, đứng dậy! Lũ chúng mày là chúa cũ kỹ, chúa phong kiến. Chúng mày có cần tao là người làm chứng không? Trong vòng mấy năm nay tao nhìn đời bằng cặp mắt say, nhưng càng nhìn lại càng tỉnh. Người làm mối của chúng mày ấy, thực ra là cái chổi tre trong tay, là lớp đá xanh lát trên mặt phố... cũng chẳng sao. Tối hôm nay, tao trà trộn vào đây, thôi thì, nhận lấy cái này...
Cặp vợ chồng đen lại cùng quỳ xuống, nhưng Cốc Yến Sơn đã túm chặt cả hai người, làm đúng như mình là ông chủ hôn, xếp đặt cho họ ngồi vào chỗ.
Cốc Yến Sơn mở chiếc hộp giấy:
- Đây gọi là có cái quà mọn...
Ông nhấc từ trong hộp ra bốn mảnh vải, một chiếc ô tô con, một chiếc máy bay, và cả một con búp bê nữa, nói tiếp:
- Đừng có chê! Trong mấy năm gần đây, tất cả mọi nhà ở thị trấn, có con trai con gái dựng vợ gả chồng, tao đều có tý quà tặng như thế này cả, bọn mày cũng thế. Tao chúc chúng mày sớm sinh quý tử... đã là vợ chồng, thì dù đỏ, dù đen, là quân này, lũ nọ, đều phải có người nối dõi.
Hồ Ngọc Âm thấy trong người hết sức bàng hoàng, choáng váng, gần như bị ngất xỉu đi... nhưng cô vẫn cố gắng gượng lại được. Cô tới trước mắt Cốc Yến Sơn, quỳ hai gối xuống, thút thít nói:
- Bác Cốc! Xin bác nhận một lễ này của cháu... bác đã vì cháu, vì cái số đầu mày tấm gãy mà bác đã mắc hàm oan... Chính cháu đã làm hại bác, làm bác phải chịu đau khổ... một cán bộ Nam tiến lão thành... Nếu như tất cả những người cán bộ khác, đều được như bác, những người cộng sản đều một kiểu như bác, ngày tháng đã được yên bình... hu hu hu. Bác Cốc ơi, nếu như từ nay về sau Bác không chê cháu hèn, cháu đen... thì suốt cuộc đời này, trên thế gian này, cháu xin làm thân trâu ngựa để đền nghi lại Bác...
Ông Cốc Yến Sơn lúc này cũng trào nước mắt, nhưng lại làm ra vẻ cứng cỏi:
- Đứng lên, đứng lên, đang vui vẻ tưng bừng như thế này, làm sao giở những chuyện đó ra? Mình xấu tốt thế nào, bao giờ mình cũng là người hiểu biết rõ nhất... nào nào... uống... uống! Bây giờ ở cửa hàng lương thực nó chẳng cho bác mó vào bất kỳ công việc gì, cho nên tối nay, bác sẽ uống cho ra uống, cho thỏa nỗi vui mừng.
Tần Thư Điền sắp xếp lại bàn ăn. Hai vợ chồng chúc Cốc Yến Sơn hai cốc rượu nho thật đầy. Sau khi ngửa cổ uống cạn, Cốc Yến Sơn bèn tháo bầu rượu đeo ngang hông mình ra, (Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm lúc này mới hối hận là lúc ban ngày không mua lấy một chai cuốc lủi):
- Cái thứ nước đỏ này của chúng mày ấy mà, để cho hai vợ chồng mày uống cho ngọt giọng vui vầy. Tao phải uống cái thứ ngang ngang này của tao, nó mới đã, mới ngấm!
Người này chúc người kia, người kia mời người nọ, cốc này cốc khác, cả ba người đều rất xúc động. Cốc Yến Sơn uống đến đờ cả mắt ra, đột nhiên ông đề nghị:
- Này cậu Tần, tao nghe nói từ lâu, mày vì cái... cái “sàn hát mừng” gì đó mà trở thành phái hữu ấy, Ngọc Âm cũng tốt giọng, hai chúng mày, tối nay thành vợ thành chồng, nên phải hát lên vài bài, gọi là chúc mừng... chúc mừng tân hôn, cho nó vui vẻ!
Lời đề nghị của ân nhân, sao lại có thể từ chối được? Cặp vợ chồng mới, không phải bị rượu làm say, mà là say vì hạnh phúc, cùng hát một bài đồng ca “Bài ca của những người phu kiệu”, mang tính khôi hài, vui vui:
Cô dâu ơi, em khóc cái gì?
Vai anh khiêng kiệu cho em đi lấy chồng.
Mắt anh làm ngọn đèn lồng...
Vai anh làm ngựa nhong nhong cho em ngồi
Tám chân của bốn con người,
Đi nhanh như thể con thoi... nhịp nhàng.
Leo đường dốc, quặt đường ngang...
Da vai trầy trật... hỏi cô nàng biết chăng?
Làm sao em chẳng nói năng?
Cười lên, cho được vui bằng người ta...
Uống mừng em, chén rượu... la đà...
Trên đường em gọi... Anh à... anh ơi...
Sức mạnh của những cái hạt thật vô cùng mạnh mẽ. Trên sườn những dãy núi đá hoa cương của vùng núi Ngũ Lĩnh, không biết từ đâu bay đến một cái hạt, trong đó có mấy cái nhân chỉ to bằng hạt trà dầu, những hạt nhân ấy, rơi vào những kẽ núi, không có lấy một tý đất to bằng cái móng tay, nó chỉ biết dựa vào chút nước ẩm từ trong đá toát ra, mà nó cũng nảy mầm, đâm rễ. Cái bộ rễ ấy thuộc vào hệ nào vậy. Mà nó như vuốt hổ, móng rồng, xuyên núi phá đá bám chắc vào những mạch núi, ăn sâu vào những khe đá, ngậm đắng nuốt cay, muôn vàn gian khổ, tìm kiếm lấy một chút chất sống cho cuộc đời mình. Đâm rễ, nảy lá, cây cành vững chãi, vươn lên ngạo nghễ. Gỗ chắc mà cứng như sắt. Những người trông thấy loài cây này, không thể không kinh ngạc trước những kỳ tích của cuộc sống. Những người đốn gỗ, gặp loại cây này, thì cưa rít, răng mẻ, rìu búa cũng phải quằn.
Một tháng sau, Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm bị gọi lên công xã. Ban đầu, họ cứ tưởng là họ được gọi lên để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Duy chỉ có một mình Tần Thư Điền là có kinh nghiệm, anh nghĩ được xa, nên đã nhét vào chiếc túi vải hai bộ quần áo thay đổi:
- Tần Thư Điền, cái đồ phái hữu, đội mũ sắt chó má, to gan, dám làm những việc bậy bạ!
Khi Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm vừa bước vào văn phòng công xã, đã bị Lý Quốc Hương đập bàn, xẵng giọng quát lác. Bí thư đại đội sản xuất Vương Thu Xá ngồi bên, sắc mặt cũng hầm hầm. Quanh đấy còn cả đống cán bộ công xã cũng hùa theo, với cả đống giấy bút bày sẵn trước mặt.
Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm đứng cúi đầu, xuôi tay.
Tần Thư Điền chưa rõ đầu đuôi ra sao, nhưng đã nói:
- Báo cáo với thượng cấp lãnh đạo, tôi có tội, tôi xin nhận tội.
Nữ chủ nhiệm nói như tuyên án:
- Trong thời kỳ lao động cải tạo, mà không coi pháp luật ra gì, không coi quần chúng ra gì, dám công nhiên chung sống phi pháp với phần tử phú nông Hồ Ngọc Âm, dám điên cuồng chống đối lại giai cấp vô sản chuyên chính...
Nguyên do là vì, tối hôm trước, khi Vương Thu Xá báo cáo và thỉnh thị công tác riêng, lúc ấy nữ chủ nhiệm mới hỏi lại tỷ mỷ tường tận việc hắn bị ngã què cẳng. Vương Thu Xá mới kể lại chuyện cái buổi sáng sớm hôm ấy, từ cửa ngách của hợp tác xã cung tiêu đi ra, trượt phải đống phân trâu nhão, rồi được tên phái hữu đội mũ sắt, đi quét đường sớm, trông thấy, mới cõng về ngôi nhà sàn cho. Sau đó hắn còn nói thêm rằng, gần đây Tần Thư Điền đã có nhiều biểu hiện tốt, vân vân.
- Tôi biết ngay rằng anh rơi vào bẫy của chúng nó mà!
Nữ chủ nhiệm cười nhạt, vạch tội hắn, rồi nhiếc:
- Anh là đồ ngu anh có hiểu không. Cái ngõ hẻm bên tường vây của hợp tác xã cung tiêu nó rộng được bao lăm, thường ngày chẳng có ai dắt trâu bò đi qua cái ngõ hẻm ấy làm gì, với lại trâu bò nó ỉa đâu không ỉa, làm sao lại ỉa đúng vào cái cửa ấy, không xa hơn mà cũng không gần hơn? Khi ấy anh hay đến ngủ đêm ở trên gác hợp tác xã cung tiêu... dứt khoát là bị cái thằng phái hữu đội mũ sắt ấy theo dõi, nên mới giăng một cái bẫy. Cái đồ anh ấy, sức lực thì như trâu như ngựa, mà đầu óc lại quá tối tăm, thiếu mất sợi dây đàn đấu tranh giai cấp.
Vương Thu Xá bị nữ chủ nhiệm nhiếc móc, vạch trần ngay tại trận, không còn chỗ mà chui, chỉ mong sao thụt được cái đầu vào bên trong cổ áo. Đồng thời cũng ngấm ngầm thán phục rằng cái bà cấp trên này của mình quả thật là cao cường, chẳng phải tay vừa.
- À! Căm thù giai cấp! Ngày mai tôi sẽ cho dân quân đi bắt thằng Tần Rồ về, cho nó ngủ với con lợn sề.
Vương Thu Xá nghĩ tới chuyện mắc bẫy của tên hữu phái, khốn khổ khốn nạn, mất đứt hai tháng trời, trợn trừng hai con mắt tam giác lên, nổi trận lôi đình, đe dọa vậy.
Nữ chủ nhiệm, ngược lại, là người có cơ mưu, kế hoạch, nên bình tĩnh nói:
- Cần phải đấu với nó bằng mưu mẹo, chứ không thể thuần tuý nghĩ đến việc róc xương, lột da nó... Thế nó không làm đơn xin kết hôn với Hồ Ngọc Âm, và đã công nhiên ngủ nghê với nhau rồi đó sao? Trước hết ta hãy lục đến cái tội phạm pháp luật, chung sống với nhau ngoài vòng pháp luật của nó! Cho nó đi cải tạo lao động từ tám năm đến mười năm có khó gì? Chỉ cần nói nhỏ với các bộ môn có liên quan ở huyện một câu là xong. Khi đã tống được nó vào trại cải tạo lao động rồi thử hỏi cái thằng phần tử loại 5 ấy, còn đi mà rình rập ở cái tường cao với tường thấp nữa được không?
Thế là Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm bị lôi đến văn phòng công xã.
- Tần Thư Điền! Hồ Ngọc Âm! Chúng mày chung sống với nhau bất hợp pháp, có đúng thế không? - Nữ chủ nhiệm tiếp tục nghiêm giọng hỏi.
Tần Thư Điền ngẩng đầu lên giải thích:
- Kính thưa thượng cấp lãnh đạo tôi là kẻ có tội... Chúng tôi đã trình đơn lên cán bộ đại đội rồi, đại đội đã cho chúng tôi đôi câu đối trắng, chấp nhận chúng tôi là “một cặp vợ chồng đen”... Chúng tôi vẫn cứ nghĩ rằng, cô ấy là một quả phụ, tôi là một người độc thân đã ngót bốn chục tuổi, lại cùng là phần tử loại 5, chúng tôi không có trèo tường, khoét ngạch... Lãnh đạo công xã phê chuẩn cho chúng tôi mới phải chứ... ạ?
- Cứt! - Vương Thu Xá nghe vậy, liền đập mạnh tay lên bàn đứng dậy, vì thấy trong lời nói của Tần Thư Điền có ý móc máy. - Đồ đê tiện bỉ ổi! Mày là đồ hai mang vừa là phái hữu vừa là lưu manh, lại vừa là phản cách mạng vừa là ác ôn. Quỳ xuống! Bố mày bảo mày quỳ xuống! Mày có quỳ xuống không? Đến hôm nay tao mới nhìn thấy cái lòng lang dạ chó của mày! Phì! Quỳ xuống! Mày không chịu quỳ hả?
Hồ Ngọc Âm kéo kéo Tần Thư Điền. Tần Thư Điền đã làm phái hữu hơn mười năm, đây là lần đầu tiên anh không chịu uốn gối, không chịu quỳ, thậm chí cả đầu cũng không thèm cúi xuống. Trước kia mệnh lệnh bắt anh quỳ xuống là chính trị, còn hôm nay bắt anh quỳ là mệnh lệnh của dâm ô. Hình như Hồ Ngọc Âm cũng hiểu được mặt khác của chuyện này nên cô cũng bạo dạn lên. Vương Thu Xá không nén nổi giận dữ nên nắm hai nắm đấm cứng như sắt, lao tới, vung lên...
Hồ Ngọc Âm cũng lao tới, cặp mắt nảy lửa nhìn thẳng vào chủ nhân ngôi nhà sàn, nét mặt kiên quyết rắn đanh lại:
- Vương Thu Xá! Dù có đánh, có giết gì, thì tôi cũng cần phải nói một câu.
Trước đôi mắt nảy lửa ấy, Vương Thu Xá chợt chết lặng đi.
- Ta đã biết nhau bao nhiêu năm rồi anh hiểu chứ? Ta đối diện với nhau, đây đâu phải lần đầu? Nhưng tôi chưa từng vạch những chuyện ma quỷ của anh ra... và từ này về sau tôi cũng chẳng thèm vạch mặt anh đâu! Nhưng mà hôm nay tôi muốn hỏi anh một điều, quan hệ của chúng tôi, đều rõ như bay ngày ở cái thị trấn này, ông già bà cả ở phường phố đều biết hết, đều công nhận cả, hơn nữa chúng tôi có đơn xin nhà nước cho đăng ký, như vậy là phạm pháp sao, hay những kẻ ban ngày thì đến báo cáo, đến đêm lại luồn vào bằng cửa ngách là phạm pháp?
- A! Giỏi, định làm phản hả, định lật đổ hả...? Con mẹ...
Bà nữ chủ nhiệm, một con người thập thành về mọi phương diện, chưa hề biết lúng túng là gì, nay đột nhiên không giữ nổi bình tĩnh, cũng bật lên, chửi bới như một con mụ đanh đá, chua ngoa...
- Con mẹ phú nông phản động kia! Cái con đĩ trải chiếu bán dâm ở khắp các đầu đường xó chợ kia, đồ yêu tinh, đồ lẳng lơ đĩ thõa! Để rồi xem bà có rạch mồm mày ra được không? Bà sẽ rạch mồm mày ra cho mày biết mặt... bà!
Thật chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. Lại càng không thể nói đến nghệ thuật đấu tranh, đến tác phong lãnh đạo, đến chính sách chính vở gì nữa. Quả là đã làm ô uế, nhiễm bẩn, sâu đến mấy thước đất nơi văn phòng công xã này rồi. Nhưng rồi Lý Quốc Hương nghiến răng lại, người run lên bần bật, và bấm đến tóe máu mấy đầu ngón tay, mới khỏi xông vào cắn xé Hồ Ngọc Âm. Mụ là người thông minh. Phó thống soái Lâm Bưu đã từng dạy dỗ mụ rằng: Chính quyền tức là quyền trấn áp. Mụ quyết định sử dụng quyền trấn áp ấy:
- Mấy anh dân quân đâu! Đem dây thép lại đây cho tôi! Lột hết quần áo của con mẹ phú nông này ra cho tôi, rồi lấy dây thép xâu hai bầu vú của mụ ta lại!
Cặp vú phát triển bình thường của Hồ Ngọc Âm giống như của các bà mẹ, vốn là bầu sữa dùng để nuôi nấng đời sau, liệu có bị người ta dùng dây thép xuyên vào với nhau không? Chắc là độc giả cũng không thể nhẫn tâm mà nhìn cảnh đó được, và tác giả cũng không nhẫn tâm mà viết cảnh đó ra. Những tội hình còn thảm khốc hơn tội hình thời nguyên thuỷ ấy, quả thật cũng đã chính thức xảy ra ở đại địa Trung Quốc vào những năm 60 của cuối thế kỷ XX này!
Tuân theo sự bố trí và sắp xếp của cấp trên, khi bắt đầu phong trào “một phê hai đấu, thanh lọc đội ngũ giai cấp” của công xã, thì cặp vợ chồng đen Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm, lập tức trở thành tấm bia sông để triển khai phong trào vận động, đồng thời cũng là tội phạm phản cách mạng điển hình. Trong một cuộc đại đội tuyên án trên bãi đất trống, trước cửa sân khấu trong chợ của thị trấn Phù Dung, tên hữu phái phản động, và hiện nay là phần tử phản cách mạng Tần Thư Điền bị phạt mười năm tù giam. Tên phú nông phản động Hồ Ngọc Âm bị xử phạt ba năm tù giam, nhưng vì đang có chửa nên tạm cho hoãn thi hành án. Tất cả những người biết rõ về vụ án này, đều len lét lẩn vào góc tối, gạt thầm nước mắt, trong số những người rơi lệ đó có Lê Mãn Canh và vợ anh là “Ớt phật thủ”. Lập trường của vợ chồng họ không vững vàng, yêu ghét không rõ ràng, không phân biệt được địch ta! Họ không hiểu được, rằng, trong thời kỳ hoà bình, lòng nhân từ đối với bọn Tần Thư Điền những kẻ thù tuy trong tay không có một tấc sắt, cũng chính là tàn ác với nhân dân. Họ không hiểu được rằng, một khi bọn Tần Thư Điền, Hồ Ngọc Âm lật đổ được chính quyền, ngóc được đầu dậy, thì hàng trăm ngàn vạn đầu người cách mạng sẽ rơi xuống đất, và máu sẽ chảy thành sông, thây sẽ phơi đầy đồng. Tần Thư Điền sẽ lại đăng đàn, lại chỉ huy biểu diễn “sàn hát mừng”, sẽ biến chủ nghĩa xã hội thành chủ nghĩa phong kiến, sẽ làm thay đổi màu sắc của cái giang san đỏ au này, thành màu tím, màu lam, màu vàng, màu lục. Hồ Ngọc Âm sẽ cứ năm ngày một phiên chợ, lại bày biện cái quán canh bánh tráng ở thị trấn Phù Dung, bán một hào một bát, bóc lột mồ hôi và xương máu của nhân dân béo tốt, rồi xây dựng lại ngôi lầu mới, làm địa chủ mới, phú nông mới.
Tần Thư Điền và Hồ Ngọc Âm khi bị dẫn giải lên đài lãnh án, thái độ ngoan cố, hung hàng càn rỡ, không khóc lóc. Họ đã bị đấu không còn thiếu một kiểu, một loại nào, đấu thành chai, thành nhờn, thành thối, thành những kẻ ngoan cố, có chết cũng không thay đổi được, và là cơ sở xã hội của đường lối xét lái hiện đại phản cách mạng. Tần Thư Điền không nhận tội, không chịu cúi đầu. Hồ Ngọc Âm ngửa lưng, ưỡn cái bụng phưỡn ra diễu võ dương uy với toàn thể hội trường. Có một cái chết là, khi thẩm phán viên đọc án quyết, dù là lập pháp, hành pháp là một, vì đã được nhất nguyên hóa đến cao độ, nhưng vẫn phải thi hành một loạt những thủ tục, nên dân quân tạm thời không được phép ấn cái đầu chó của họ xuống.
Hồ Ngọc Âm và Tần Thư Điền, hai người đứng đối diện với nhau. Họ, mắt nhìn mắt, mặt nhìn mặt, nhưng họ không nói và họ cũng không được phép nói. Song, tấm lòng phản động của họ vẫn cảm thông được với nhau, ý tứ của nhau họ đều hiểu rõ:
- Phải tiếp tục mà sống, dù rằng sống như một con vật cũng vẫn phải sống.
- Xin hãy yên tâm. Những người tử tế ở thị trấn Phù Dung không thiếu. Nhất định phải sống qua được cái thời buổi này, và sống vì người đời sau của chúng ta.