Chương IV DÂN TÌNH XUÂN NAY (Năm 1979) SÔNG PHÙ DUNG VỚI NGÒI NGỌC DIỆP
THỜI GIAN LÀ MỘT DÒNG SÔNG, MỘT DÒNG SÔNG chảy trong ký ức con người, một dòng sông cuộc đời.
Tưởng như nhè nhẹ êm trôi, không một tiếng vang, không long lanh chói mắt. Nhưng bạn đâu có biết, nó đã xuyên qua bao nhiêu kẻ đã ngăn trở, đè nén, chèn ép nó? Ngàn vạn lần uốn khúc, quanh co, không ngừng nghỉ, không bao giờ ngoảnh đầu nhìn lại phía sau. Những mỏm núi cheo leo tàn nhẫn, vô tình, quăng nó xuống vực sâu, xương tan thịt nát, biến thành khói sương, mờ mịt. Trong những khe sâu thăm thẳm, nó lại tìm hợp lại, sắp xếp lại đội ngũ, cờ xí, gầm thét những lời chống đối, quật khởi, khí thế hào hùng. Tiếng gầm gào của ngọn sóng tuyên cáo một cách chính xác rằng: Không có gì ngăn cản được nó. Khỉ vượn có thể đến uống nước, hươu nai có thể đến tắm táp, bạch hạc có thể đến điểm trang, rắn độc có thể đến bơi lội, mãnh thú có thể đến tranh hùng, con người có thể đến buông bè thả mảng, có thể xây dựng những con đập cao như vách núi, chặn dòng nó, đun nó thành năng lượng hơi nước... Tất cả những cái đó đều không thể làm thay đổi chí hướng hội nhập, nhảy ra biển lớn của nó.
Cuộc sống là một dòng sông, dòng sông chuyên chở cả những niềm vui và cả những nỗi buồn, dòng sông đầy rẫy những hiểm nguy nhưng lại thú vị vô cùng, mọi người đều biểu diễn trên dòng sông này, chầu văn đấu võ, vai trung vai nịnh. Con người đều bộc lộ ra tất cả những diện mạo tôn nhan, gọi chung là “bộ mặt”. Phu nhân tố cáo thủ trưởng. Con ông cháu cha. Thanh mai trúc mã, cho đến những bạn thân trở thành sinh tử đối đầu. Linh hồn thành đĩ điếm. Đạo đức thành dâm ô. Những tính người, tình người của giai cấp tư sản. Phong trào quần chúng, động viên quần chúng. Những người động viên quần chúng, bản thân cũng bị động viên. Trái đất quay theo quỹ đạo, và tự quay, sao không động cho được? Ghi nhớ không quên: mày chết tao sống. Mảnh đất quyền lực chỉ là những nắm đấm, hỏi làm sao mà mọi người sống nổi? Phái hữu không thối, phái tả liệu có thơm không? Ôi, những cuộc chen chân về cái “tả”, chạy đua theo cái “tả”, cái “hữu” lại giống như hồn ma bóng quỷ không nơi nương tựa, tất phải chăng lưới bủa vây bắt giữ chúng. Từ quần áo ăn mặc, nước hoa, kiểu tóc, cho đến răng trắng môi hồng, văn kiện báo cáo, những đại hội tiểu hội không ngừng không nghỉ, những trận hồng thuỷ chính trị đỏ như lửa, trắng như lau, đều nhằm hưng thịnh vô sản, tiêu diệt tư sản. Cho đến ớt xanh trước ngõ, bí đỏ vườn sau của xã viên công xã đều là tư bản chủ nghĩa, cần phải trồng hướng dương, hướng dương có tính tượng trưng, những ai cắn hạt hướng dương là có tội. Ai bảo rằng, không có những nhà tư bản. Những người buôn thúng bán bưng, nhìn theo quan điểm phát triển, đó là những nhà tư bản.
Những mảnh đất phần trăm, những thị trường tự do chính là giường ấm nệm êm. Cần chủ động tiêu diệt. Tấc đất cũng đòi, tấc quyền cũng đoạt. Phải tiêu diệt chủ nghĩa tư bản từ trong trứng, trong nôi. Lẽ nào để cho chúng rầm rộ phát triển đến thành tai họa? Nhà nhà xô vào trồng ớt, trồng bí đỏ để bán (bí đỏ còn có thể nấu rượu), đồng ruộng tập thể trở thành hoang hoá mất! Và ớt, và bí đỏ trở thành tai họa. Lương thực và tiền tài, giàu và nghèo, có quan hệ biện chứng với nhau. Nếu như mọi người đều có tiền rủng rỉnh, đều giàu có, đời sống được nâng cao, vượt qua cả mức sống của địa chủ, phú nông trước giải phóng, ăn uống no đủ, thừa mứa, còn gì là cách mạng nữa? Cán bộ xuống xã, vận động sản xuất, còn biết dựa vào ai? Đoàn kết với ai? Tranh thủ ai? Cô lập và đả kích ai? Làm sao khi sắp xếp đội ngũ chính trị, mà lại thiếu được những pháp bảo và cây gậy thần này? Bần nông và trung nông lớp dưới vẫn là bần nông và trung nông lớp dưới. Họ phải luôn luôn và vĩnh viễn chiếm đa số. Nếu họ tiến lên thành trung nông, sống no ấm đầy đủ, thiên hạ sẽ đại loạn mất, và thế là cách mạng ô hô ai tai. Những vấn đề của Trung Quốc có hàng bồ, hàng đống, đó là cái bể mênh mông của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Cần phải có một chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi vấn đề, đó là: Đấu tố. Từ trên xuống dưới, dăm sáu năm một lần, như sấm rền bão giật, đấu tố, đấu tố và đấu tố. Kỳ diệu vô cùng, thành nghiện. Bạn tính xem: Đấu tố có khác gì chiếc chìa khóa mở tung được ổ khóa đồng cũ kỹ? Cái kiểu chữ vuông của Trung Quốc, tuy có đơn giản hóa đi, vẫn cố giữ lấy chút tượng trưng của loại chữ tượng hình, ở cửa thành Sơn Hải Quan, ở cố cung, vườn cấm, ở văn chỉ thờ Khổng Tử, ở những nhà thờ họ thôn quê, ở những kho lẫm hòm tiền của địa chủ, ở những nhà giam của hương thôn công xã, ở cánh cửa sắt của đập nước, tất cả là những ổ khóa đồng giống hệt nhau và một chiếc chìa khóa đồng, đại đồng tiểu dị, ấy là: Đấu tố. Đúng là quốc hồn quốc túy, những kiệt tác truyền đời. Có đấu tố mới có tiền, không đấu tố tất lùi, tất thành xét lại. Đấu tố, đấu tố và đấu tố cho đến năm khỉ, tháng ngựa, cho đến kỳ thống nhất được thiên hạ, cho thế giới đại đồng. Lịch sử có quy luật tự thân, nó quyết định sự chối bỏ, lựa chọn vạn sự vạn vật của xã hội loài người. Nghiêm túc, thản nhiên biết bao nhiêu! Cho đến tháng 10 năm 1976. Lịch sử đã đánh một dấu chấm và một dấu than khổng lồ trên đại địa Thần Châu. Tiếp đó lại xuất hiện một dãy dài những dấu hỏi. Đại hội “toàn quốc lần thứ ba” của Đảng, đã xoay chuyển càn khôn, đẩy lùi muôn vàn gian khó, đập vỡ khối băng dầy, dòng sông của cuộc sống lại tuôn trào, cuồn cuộn.
Cần phải nói rằng, dù, trong những tháng năm, con người đã mù quáng, điên cuồng mở những cuộc chạy đua về phía cực tả có tính quy mô toàn quốc, nhưng dòng sông thời gian, dòng sông cuộc sống, vẫn chảy về phía trước, không ngừng không nghỉ, và càng không chảy ngược dòng. Thị trấn Phù Dung ở vùng sơn cước núi Ngũ Lĩnh hẻo lánh xa xôi, cũng vẫn đi lên. Chiếc cầu lớn cho xe chạy, ngựa qua trên sông Phù Dung cũng đã hoàn thành, thông với đường quốc lộ. Ban đầu qua đó chỉ là xe cải tiến, xe cút kít, xe trâu, xe ngựa, tiếp theo là máy kéo, ô tô tải, ô tô khách, đôi khi cũng có gặp một chiếc com măng ca. Khi có một chiếc com măng ca tới lũ trẻ trong thị trấn chạy theo rần rần. Tròn xoe cặp mắt ngắm nghía. Nhất định đó phải là phó bí thư huyện ủy Lý Quốc Hương trở lại “căn cứ địa”, để kiểm tra công tác chỉ đạo. Sau đó nữa, là tất cả các loại ô tô đủ kiểu, bởi vì ở thị trấn đã xây dựng mấy nhà máy xí nghiệp. Đó là một nhà máy giấy, vì ở đó có nguồn nguyên liệu tre nứa vô tận. Một nhà máy rượu, nấu bằng khoai, sắn, và bằng những lương thực phụ khác. Nghe nói nước sông Phù Dung có một hàm lượng khoáng chất gì đó, nên rượu có năng suất cao, vị rượu lại thơm ngon. Một xưởng cơ khí, một nhà máy thủy điện, do vậy số nhân khẩu trong thị trấn cứ như kiến làm tổ, tăng lên gấp mấy lần. Tiếp đó là bến xe, bệnh viện, khách sạn, quán giải khát, tiệm cắt tóc, hợp tác xã may, hiệu sách Tân Hoa, phòng bưu điện, cửa hàng sửa chữa đồng hồ, vân vân, đã tiếp nối nhau ra đời, và trên khoảng đất trống vốn là trung tâm của mỗi phiên chợ ngày xưa, nay đã thành ngã tư của hai đường phố, gọi là Phố Mới. Phố Đá Xanh ngày xưa gọi là Phố Cũ.
Thị trấn Phù Dung thành lập ủy ban cách mạng thị trấn. Trở thành một cấp chính quyền địa phương, nhưng vẫn nằm chung trong công xã Nhân Dân, cơ cấu thể chế vẫn còn rối rắm. Chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn là Vương Thu Xá, nhân dân thị trấn vẫn quen gọi là trưởng thị trấn. Bên dưới ủy ban cách mạng thị trấn còn có đồn công an, có phòng truyền thanh, và một số ban ngành khác. Dù là con chim sẻ thì ngũ tạng của nó vẫn phải tề toàn. Đồn công an quản lý toàn bộ hộ khẩu, dân số, đánh phá bọn đầu cơ lừa đảo, kiêm huấn luyện dân quân vũ trang toàn thị trấn, đánh phá các vụ án “phản động” ngày một nhiều. Phòng phát thanh truyền thanh đặt ở phố Mới, các nơi phố Cũ đều gắn loa loại to, tiếp đó là trên tường mỗi gia đình đều có những chiếc loa vuông hộp gỗ, sớm, trưa, chiều tối ba lần, phát những vở kịch vở tuồng cách mạng, những bài hát cách mạng và các loại thông tri thông báo cùng những nghị quyết quan trọng của ủy ban cách mạng thị trấn. Còn có cả bản tin của thị trấn nữa. Nội dung bản tin thị trấn rất phong phú, thấm đậm màu sắc chính trị. Trước đây mấy năm, luôn luôn bám sát thực tế, phê phán Lâm Bưu, phê phán Khổng Tử, phê phán nho gia, bình luận pháp gia, thực hiện chuyên chính toàn diện với giai cấp tư sản, tuyên truyền thành quả to lớn của cuộc đại cách mạng văn hóa trong thị trấn, tiếp theo nữa là “phê phán Đặng Tiểu Bình phản kích những kẻ định lật lại bản án hữu khuynh”, và “phương châm kịp thời”. Còn nay thì sao? vẫn là cô phát thanh viên ấy, vẫn cái giọng nói tiếng phổ thông pha thêm giọng địa phương, theo nghị quyết đã được thông qua của ủy ban cách mạng thị trấn, đang phê phán cực lực, và bóc trần những tội lỗi của Lâm Bưu và “lũ bốn tên”, phê phán đường lối cực tả, nói về mười năm tàn sát hung bạo, đang tuyên truyền về cương lĩnh mới xây dựng đất nước, nhiệm vụ tổng hợp của thời kỳ mới, đang hiệu triệu một cuộc vạn lý trường chinh mới, bốn hiện đại hóa xây dựng. Những chiếc loa to có công suất rất lớn, chiếm lĩnh, áp đảo trong thế giới âm thanh ngay cả đến những tiếng nổ trên đường phố của máy kéo của ô tô, của tiếng búa máy trong xưởng cơ khí, tiếng máy nghiền trong xưởng giấy cũng nhạt nhòa thanh sắc trước những tiếng loa, phải lui quân đến ba xá. Những bà con lối xóm trên phường phố trong phố Cũ, phố Mới, khi đứng đối diện chuyện trò cũng khó mà nghe được tiếng nói của nhau. Như vậy cũng giảm bớt được những điều to tiếng nhỏ, những chuyện sang tai thì thào, có lợi cho ban quản lý trị an.
Trên con đường tiến lên, đương nhiên sẽ nảy sinh hàng loạt những vấn đề. Không có đường cái quan sẽ không có ô tô, không có ô tô, tất không làm bốc bụi đường cuồn cuộn. Ô tô, máy kéo chạy trên đường trải cấp phối, lớp bụi đất đỏ bốc lên mờ mịt, hàng tiếng chưa tan hết, gọi là “đường ta” thuộc hệ thống giai thoại “đường Tây”(1). Phố Cũ còn đỡ. Bên phố Mới thì nóc nhà, kẽ ngói, sân thượng, bệ cửa sổ, không đâu là không đóng một lớp bụi dầy. Đợi khi nào trời mưa to, mới có một cuộc rửa ráy thiên nhiên. Ngã tư phố Mới không có cống ngầm, dân phố, cửa hàng đều hắt nước bẩn ra đường cấp phối, ngày nắng ráo còn khá, vì mặt đường cấp phối hút nước rất ghê. Nhưng đến những ngày mưa, đường phố lập tức thành “con đường bùn”, nước chảy ào ào khắp phố, những chàng tài xế thích phóng xe trong mưa, làm cho từng đám nước bẩn đục, từng mảng bùn đất bắn tung, bắn tóe, làm lốm đốm, nham nhở tường vách, và khung cửa kính của nhà cửa hai bên. Cũng hay, như vậy vừa đỡ tiền, lại giảm việc, nhân dân hàng phố đỡ phải đi mua vải làm rèm cửa. Nghe nói trưởng thị trấn Vương Thu Xá và các đồng liêu của mình, đang nghiên cứu xây dựng quy hoạch của thị trấn, đang định đào một con rãnh ở hai bên ngã tư đường, cho nước bẩn được lưu thông. Có người bảo nên đào cống ngầm, nhưng ông Vương, trưởng thị trấn bác lại:
- Cống ngầm? Cống với rãnh thì có khác gì nhau? Mình không phải là Quảng Châu, Thượng Hải, không làm ăn theo kiểu Tây!
Vì thế đã đi đến quyết định, cứ theo dự án thiết kế cái rãnh mà vẽ trên giấy rồi đưa ra hội nghị ủy ban cách mạng thị trấn thẩm định, phê chuẩn, giao cho đồn công an thị trấn tập trung toàn bộ những địa chủ, phú nông, phản động, các phần tử xấu, cùng những tay sai, nanh vuốt của bè lũ “bốn tên”, làm nghĩa vụ lao động, và hẹn ngày hẹn tháng phải hoàn thành.
Giữa các công trường, xí nghiệp cũng thường xảy ra những mâu thuẫn và tranh chấp với nhau luôn. Đã có hai xí nghiệp ẩu đả với nhau. Các xí nghiệp, công xưởng thường xây dựng theo dọc sông Phù Dung cho tiện việc lấy nước và thoát nước thải, còn tiện cả cho việc vận tải đường sông nữa. Nhưng nhà máy giấy lại xây dựng ở phía đầu ngòi Ngọc Diệp, bên trên nhà máy rượu tới bốn dặm. Ban đầu, đương nhiên, chẳng có ai nghĩ tới vấn đề gì sẽ xảy ra. Cách xa nhau tới bốn dặm đường, lại thuộc hai con đường thủy khác nhau, công nhân thanh niên nam nữ của hai nhà máy chim chuột nhau, còn đi dung dăng dung dẻ chán chê mê mỏi với nhau trên bờ sông, nào ai có vướng chân ai đâu? Nhưng khi nhà máy giấy bước vào sản xuất, tống nước thải có chất kiềm ra sông, nổi bọt trắng xóa, lềnh bềnh trôi theo nước chảy xuôi, đổ ra sông Phù Dung, nhưng ai đi quản chuyện giời ơi, xa xôi hàng năm mười dặm đường như thế? Hai mẻ đầu, rượu của nhà máy rượu nấu ra, có vị đăng đắng, chỉ còn biết có kêu giời. Nhà máy rượu đòi nhà máy giấy bồi thường tổn thất, nhà máy giấy đòi nhà máy rượu chuyển địa điểm sản xuất. Các anh coi nước sông là kém, chúng tôi lại coi nó là quý. Kiện cáo nhau lên đến huyện, huyện lại chuyển về cho thị trấn giải quyết. Kiện cáo lại kéo nhau lên cấp cao hơn, cấp cao hơn chuyển về huyện giải quyết, huyện lại chuyển về thị trấn. Vương Thu Xá chủ nhiệm ủy ban cách mạng thị trấn, đâu có ba đầu sáu tay, giải quyết sao nổi? Kinh phí di chuyển địa điểm của nhà máy rượu lên tới trên triệu đồng, mà ủy ban cách mạng của cái thị trấn con con này đâu có quyền in tiền? Vương Thu Xá sợ hai nhà máy đánh nhau, sinh chuyện chết người, bèn chạy lên ủy ban cách mạng huyện khóc lóc, mời được bí thư Dương Dân Cao và phó bí thư Lý Quốc Hương về, tổ chức cho lãnh đạo hai xưởng học tập, nâng cao tư tưởng. Cuối cùng lại chọn “con đường trung dung” của Khổng Tử vốn đã bị phê phán cho đến thối um lên rồi: Nhà máy giấy xuất tiền, nhà máy rượu xuất lực, dùng ống xi măng dẫn nước từ một con suối trong veo trong khe núi cách nhà máy tới hơn ba dặm về dùng, chuyện thế mới yên. Hơn thế, lãnh đạo của hai nhà máy, còn đi đến được một thỏa thuận ngầm, sau lưng huyện ủy là: Từ nay về sau, cán bộ nhà máy giấy, đến nhà máy rượu mua rượu nội bộ, hoặc rượu thứ phẩm, rượu xử lý, được hưởng sự ưu đãi ngang với cán bộ của nhà máy rượu.
Còn như con sông Phù Dung và con ngòi Ngọc Diệp xanh màu đậu xanh, xưa nay vốn êm đềm với bóng cây mát rượi đôi bờ, và phong cảnh tươi đẹp diễm lệ, nay ra sao? Chuyện ấy, mọi người còn đang xôn xao bàn tán, nhưng vẫn còn tạm gác lại, chưa đưa được vào chương trình nghị sự của ủy ban cách mạng thị trấn vốn đang bận rộn. Do tất cả các nhà máy xí nghiệp đều tống tất cả nước thải chất thải ra sông, nên cây cỏ hai bên bờ không những không mọc được, mà còn đang bị tàn lụi dần, hơn nữa, người ta còn đem đổ các loại rác bẩn ra bờ sông. Nghe nói, lòng sông vốn đã chẳng lớn lao gì để có thể lấn chiếm, mở rộng diện tích đất đai, vậy mà người ta đã đắp bờ tiến sông thành ruộng, biến biển thành đồng. Các loại giấy vụn, hộp giấy, và cả những tờ giấy đã tẩy phèn trắng lôm lốp của nhà máy giấy, đôi khi nghe nói còn có cả những đứa con hoang, còn thiếu tháng, trôi nổi bập bềnh trên mặt sông êm đềm. Một đặc sản của sông, ngòi xưa là “cá chép Phù Dung”, nay đã hết, ngay cả đến con tôm, con cua nay cũng vắng bóng.
Có người giải thích rằng, nước bẩn và tiếng ồn, là phụ phẩm trong tiến trình hiện đại hóa xã hội. Những nước công nghiệp tiên tiến thuộc thế giới thứ nhất, thứ hai đều thế cả. Cứ theo như sự tuyên truyền của báo chí mấy năm trước đây thì trên bầu trời nước Nhật, nước Mỹ đến bóng một con chim sẻ cũng chẳng tìm thấy. Nước Anh lại phải nhập khẩu dưỡng khí. Nội địa Trung Quốc thuộc thế giới thứ ba, liệu thị trấn Phù Dung thuộc vùng núi, biên viễn xa xôi, có tránh được con đường mòn ấy không? Hơn nữa vẫn còn chưa tới cái bước mà khoảng bầu trời thiếu vắng bóng chim sẻ, và dưỡng khí cũng chả đến nỗi thiếu. Chim sẻ ở vùng thị trấn Phù Dung vẫn là một loài chim có hại, mỗi năm vào đầu mùa hạ, khi mùa lúa mạch chín, các xã viên còn phải cắm những con bù nhìn ở đầu bờ ruộng để xua đuổi chúng kia mà. Nếu như nói khoa học và dân chủ là hai chị em sinh đôi, và phong kiến ngu muội là hai vị Kim Đồng, Ngọc Nữ trước Phật đài, Thánh điện thì đấu tố chủ nghĩa tư bản ròng rã hai mươi mấy năm trời mới rõ được một điều rằng, chủ nghĩa tư bản tiến bộ hơn chủ nghĩa phong kiến. Trên thực tế thì cái chủ nghĩa phong kiến thâm căn cố đế lại đấu tố cái chủ nghĩa xã hội còn non trẻ.
Chú thích:
(1) Ở đây lại gặp lối chơi chữ của tác giả. Trong câu này, tác giả dùng hai từ “Dương khôi lộ” (đóng trong ngoặc kép) đồng âm mà dị nghĩa (với hai chữ “dương” viết khác nhau), một từ có nghĩa là “đường tung bụi”, một từ có nghĩa là “đường vôi Tây”, tức đường xi măng. Vì thế chỉ xin tạm dịch, cho gọi là lọt nghĩa. (N.D.).