Chương 2 Tống sơn đồ
Nguyễn Khản vừa xuống kiệu, chuẩn bị bước vào hoàng cung thì thấy người gia nô thường đứng hầu bên Tĩnh Đô Vương hớt hơ hớt hải chạy đến. Gia nô vừa thở hồng hộc, vừa la oang oáng: - Đại học sĩ xin dừng bước… đại học sĩ xin dừng bước! Nguyễn Khản lắc đầu cười, lẩm bẩm: - Đúng là không thể chịu được nếu thiếu ta mà! - Đại vương… đại vương giận ngài lắm… gửi ngài phong thư! Chàng đón lấy phong thư, mở ra. Trên tờ giấy ghi bốn câu thơ: “Đã phạt năm đồng bỏ buổi chầu Lại phạt năm đồng bỏ buổi câu Nhắn bảo ông bay về nghĩ đấy Hãy còn phạt nữa chửa tha đâu” Nguyễn Khản đọc xong, phá lên cười, nhún vai: - Phạt thì phạt! Đoạn, chàng ngoắc tay ra hiệu thư đồng mang giấy bút lại. Nguyễn Khản vừa viết vừa cười cười, chẳng ai hiểu nổi trong đầu chàng đang nghĩ gì. “Váng vất cho nên phải cáo chầu Phiên chầu còn cáo, nữa phiên câu Trông ơn phạt đến là thương đến Ấy của nhà vua chứ của đâu” Rồi chàng nói với một vẻ cung kính bất thường: - Ta kính thư gửi đại vương! Nguyễn Khản ngông nghênh bước vào hoàng cung không chút bận tâm đến lời dọa nạt mà Tĩnh Đô Vương. Gần đây, chàng bận bịu nhiều việc nên không thường xuyên vào chầu đại vương, hơn nữa, chàng cũng thấy mỏi mệt với những cuộc vui sa đọa ở phủ họ Trịnh. Cái cảnh phải cười cười nói nói với nhà họ Trịnh để giữ yên thế cục không phải cuộc đời mà chàng muốn có. Nhưng thời thế vậy thì biết làm sao đây! Đã nhiều lần chàng xuôi theo những cuộc vui ấy để diễn cho trọn vai, nhưng bây giờ tự dưng chàng thấy buồn rầu khôn tả. Cơn buồn ấy như một trạng thái cần phải có sau những cuộc vui điên loạn của vai diễn. Đứng đợi Khản ở hoàng cung là quan hiệu úy Nguyễn Gia Thiều. Thiều kém Khản bảy tuổi và là học trò của Khản khi Khản được Minh Đô Vương Trịnh Doanh vời vào phủ nối gót ông hoàng giáp Ngô Thì Sĩ để dạy học cho các vương tử họ Trịnh, trong đó có Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Đám vương tử họ Trịnh và các công tử thế gia lứa ấy tất thảy đều tầm thường, chỉ có Thiều là vượt trội cả về tài năng và khí chất. Gia tộc Nguyễn Gia phất lên không phải nhờ quân công hay học vấn mà nhờ vào biệt tài xây cất những tòa nhà tuyệt mỹ. Khản vốn kỹ tính và phủ Xuân quận công nhà chàng cũng được xem là phủ đệ tinh tế và độc đáo bậc nhất khiến họ Trịnh không khỏi nhấp nhổm tìm thợ giỏi để cố vượt qua. Trong số những người thợ giỏi được trọng dụng có gia đình của Siêu quận công. Siêu quận công vốn là ông nội của Thiều, rất được An Đô Vương Trịnh Cương sủng ái, mà chủ yếu muốn thế gia tài hoa ấy xây phủ đệ cho mình. Dòng họ Nguyễn Gia được trọng dụng nhờ tài xây dựng nhưng Khản lại cảm thấy ở họ chí hướng khác. Các công tử Nguyễn gia, ai cũng là dũng tướng, riêng Thiều đủ tài thao lược lại chẳng kém cạnh Khản ở khoản thi ngâm ca phú. Lần đầu tới phủ Minh Đô Vương để dạy học cho các vương tử và công tử thế gia, đúng lúc chàng được nghe tiếng đàn của Thiều. Thiều bấy giờ đã hai mươi tuổi, tư dung lãng đãng phong tình, quả thực là một mỹ nam tử. Thiều gẩy đàn ở một khóm trúc gần thư phòng, không quan tâm đến các vương tôn khác đang nói cười rôm rả. Mỗi tiếng đàn đều chất chứa tâm tư, nghe vừa khoan thai lại vừa sầu bi, thật khiến lòng người vắng lặng. Trước đó Khản đã nghe danh công tử Thiều nhà Nguyễn Gia nổi tiếng văn tài khắp Thăng Long mà chẳng bận tâm. Ở cõi Việt này, người có văn tài không thiếu, chỉ thiếu người có khí chất bất phàm mà thôi. Mùa thu năm đó, mưa to gió lớn dài ngày, cây trong phủ chúa bị bão làm cho tả tơi, tiêu điều. Hoa đều rã nát cả. Trong vườn chỉ còn mấy khóm tỏi khóm gừng ở gần khu bếp là vẫn còn lên tươi tốt. Tức cảnh, Khản ra đề bài cho học trò hai chữ “phong trần”, lòng chợt nhớ đến câu thơ của Đặng Trần Côn “thiên địa phong trần”. Đám vương tôn công tử cười cười cợt cợt, khi nghe đến hai chữ “phong trần” chỉ nghĩ đến chuyện phong hoa tuyết nguyệt, chỉ riêng Thiều buồn bã ngâm: “Lỏm chỏm vài hàng tỏi, Lơ thơ mấy khóm khương. Vẻ chi tèo tẻo cảnh, Thế mà cũng tang thương?” Tứ thơ đơn sơ nhưng tình thơ thanh thoát. Đường đường là một công tử thế gia sống trong nhung lụa mà Thiều lại sớm có cái đau bãi bể nương dâu dường ấy, hẳn trong lòng còn nhiều u uẩn. Nhưng Khản không thấu hết được tâm tư của Thiều. Chàng công tử ấy, lúc thì sôi nổi đầy hoài bão luận bàn từ thao lược cho đến kinh bang tế thế; lúc lại trầm tư tới mức chán nản và uể oải. Mỗi khi nghe Thiều đàn, Khản cũng bị lây nỗi u buồn, buồn tới mức câm lặng, không còn đủ động lực để cười cười nói nói hàng ngày cùng Tĩnh Đô vương. Hôm nay Khản hẹn Thiều vào hoàng cung là muốn thúc giục Thiều dâng tuyệt tác Tống sơn đồ lên vua Cảnh Hưng. Một bậc tài năng như Thiều, lại là con nhà thế gia, vậy mà vẫn chỉ là chức quan tứ phẩm. Anh em của Thiều an phận nhưng Khản biết Thiều không cam tâm, không cam tâm nhưng Thiều cũng chẳng nói ra, chẳng cố đua chen, chỉ đắm đuối theo câu thơ lời nhạc. Khản đã từng khuyên Thiều trong một cuộc rượu: - Nếu gặp được minh chủ, tài năng của những kẻ như chúng ta phải như chim bằng sải cánh nơi gió lốc… Nhưng nếu không gặp được minh chủ mà vẫn muốn được an dân trị quốc thì phải biết giấu cái tài, cái chí của mình đi. Trò không nên biểu lộ mình quá mẫn cán, nhưng cũng không được trễ nải công cán. Muốn tiến thân, đừng tiến thân bằng thực tài của mình, phải biết cho kẻ làm chủ cái mà họ muốn. Khi nghe mấy lời ấy, Thiều không nói gì, chau mày vừa có phần khó chịu lại vừa có phần cam tâm. Suy nghĩ hồi lâu, Thiều đáp: - Sâm vốn chẳng ưa con, con cũng chẳng ưa Sâm. Từ ngày Minh Đô Vương qua đời, thế tử Sâm trở thành Tĩnh Đô Vương thì con đường quan lộ của con đã khép lại rồi! Khản cười khà khà: - Ưa ghét chỉ là nhất thời… Trò giúp hắn xây phủ chúa lộng lẫy tột bực, hơn hẳn phủ Xuân quận công nhà ta, hắn lại chẳng đắc chí hay sao. Hắn không ưa con nhưng hắn cần con, vì thể diện của hắn bị đóng kín trong phủ đệ rồi. Đại Việt ta đâu phải chỉ có Trịnh vương, còn có Lê hoàng kia mà! Thiều lắc đầu: - Đâu còn khí phách họ Lê năm xưa nữa… - Ấy, đừng vội nói thế! – Khản ngắt lời Thiều – Thái tử Duy Vỹ nuôi chí khác, người vốn mong muốn hạ bệ họ Trịnh, nên vẫn luôn dùi mài kinh sử, bí mật tuyển dụng nhân tài trong đám hàn môn học sĩ. Thái tử có thể là cơ hội cho thầy trò ta được thỏa chí tang bồng. - Con chỉ e châu chấu đá xe mà thôi… Dựa vào hàn môn học sĩ, những kẻ vốn chỉ muốn đi thi làm quan, chẳng rõ thực học lại càng chẳng rõ sở cầu của chúng, sao có thể tin tưởng được! Điều Thiều nói không phải Khản chưa từng nghĩ tới, nhưng chẳng phải còn có hai thế tử thế gia là Khản và Thiều đó ư? Nếu Thiều chịu góp sức phò tá thái tử Duy Vỹ thì đương nhiên việc lớn có thể thành. Huống hồ vua Cảnh Hưng lại hết mực tin tưởng Duy Vỹ, chính vua đã đưa Duy Vỹ vào ngôi thái tử mà không cần sự cho phép của An Đô Vương. Phò tá Duy Vỹ là con đường duy nhất cho những ai còn nuôi hoài bão như Khản và Thiều. Vậy thế mà, Thiều vẫn chần chừ. Khản tiếp tục thuyết phục: - Vua Cảnh Hưng không mê của ngon vật lạ, không cần kỳ hoa dị thạch, lại chẳng thể xây sửa lại hoàng cung theo ý của trò, nhưng người cần nhất là sự trung thành. Muốn thuyết phục được Cảnh Hưng, rất đơn giản, những gì trò không muốn dâng lên Tĩnh Đô Vương thì hãy dâng lên vua. Thiều cắn môi vẫn không quyết. Chàng không muốn vội vã bước vào một thế cục mà chàng không nắm chắc. Khản nói thêm: - Đời người ngắn ngủi lắm… còn chần chừ thì đời đã héo tàn rồi… Chẳng phải một cơn gió bão đi qua là trăm hoa đều rơi rụng cả sao? Ta biết trò không muốn nhúng chân xuống bùn đen, nhưng trò quên rằng tất cả chúng ta đều ở sẵn trong bùn đen rồi, bây giờ chỉ có một con đường duy nhất là cố để vươn lên, sống một đời thống khoái không hối hận mà thôi! Sau buổi nói chuyện đó, Thiều đã quyết định đem dâng bức “Tống sơn đồ” của mình lên vua Cảnh Hưng. Hôm nay, Khản và Thiều cùng vào cung để dâng “Tống sơn đồ”. Để vẽ bức tranh này, Thiều đã sang đất Tống xưa kia để ngắm núi sông, chu du khắp Tần Lĩnh, Thái Hành Sơn, Đại Biệt Sơn. “Tống sơn đồ” kỳ vĩ hùng tráng chưa từng có, nếu so về quy mô chẳng kém “Thanh minh thượng hà đồ” nhưng so về khí chất thì hơn hẳn. Những dãy núi như rồng vờn thiên hạ liên miên không dứt suốt bốn mùa thay nhau, mỗi lần ngắm bức tranh Khản không khỏi trầm trồ trước các bước chuyển mùa được họa lại ở dải rừng cây trải từ ngọn này sang ngọn khác. Phải ngắm “Tống sơn đồ”, Khản mới hiểu được phần nào chí khí của Thiều. Thiều không chỉ muốn trở thành rường cột của nước nhà mà còn muốn tạo ra một thời thế thịnh trị vừa vững bền, vừa cao vời, không chút tạp nhiễm của thói đời. Mộng thì cao nhưng đời thì có hạn, thời thế và nhân tình lại càng chật hẹp biết bao, nên giấc mơ ấy, chẳng qua cũng chỉ là bức tranh mà thôi. Thiều đem “Tống sơn đồ” để dâng lên Cảnh Hưng nhưng thực ra là dâng lên thái tử Duy Vỹ vậy.