← Quay lại trang sách

Chương 3 Giang Sơn

Ngự thư phòng trong hoàng cung không có được sự tráng lệ như phủ Tĩnh Đô Vương nhưng vẫn nguyên vẻ uy nghiêm. Chiếc bàn gỗ linh sơn đen bóng kia là nơi các vua Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông của nhà Lê đã phê duyệt biết bao bản tấu. Thuở đó, vua Thánh Tông Hồng Đức còn để lại câu thơ: “Trống dời canh còn đọc sách Ngày xế bóng chửa thôi chầu”[1] Đó cũng là thời thái bình thịnh trị nhất, rực rỡ nhất của các vua Lê. Nhưng ngay sau khi vua Hồng Đức qua đời, triều Lê đi vào suy vi. Các vị vua đời sau lười biếng, trễ nải, nhu nhược. Quyền bính lần lượt hết rơi vào tay họ Mạc lại đến tay họ Trịnh. Vua Lê chúa Trịnh, chẳng phải là chuyện nực cười nhất cõi Việt hay sao? Đến thời Cảnh Hưng, họ Trịnh đã hoàn toàn nắm hết chuyện triều chính, vua Lê chỉ biết giương mắt nhìn cha con, anh em ấy thao túng triều chính, triệt hạ các phe đối lập, nâng đỡ phe cánh. Giang sơn Đại Việt do nhà Lê gây dựng cứ thế cứ thế chuyển dần sang họ Lê. Nếu không phải họ Trịnh vẫn bị câu tiên tri của cụ Trạng Trình “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” trấn áp thì có lẽ đại biến đã diễn ra từ sớm. Chiếc bàn trong ngự thư phòng không còn được dùng để phê duyệt bản tấu và nghị sự, nên không còn các giấy tờ thư tịch nữa, mà trống huơ trống hoắc. Vua Cảnh Hưng ngồi nhỏ thó, già héo hắt trong chiếc hoàng bào. Đứng hầu vua bên cạnh là thái tử Duy Vỹ và hoàng tử Duy Cận. Thái tử Duy Vỹ đang ở độ tráng niên, khí thế đường đường, khuôn mặt sáng ngời rạng rỡ, ánh mắt sáng quắc lúc nào cũng bao trùm khắp thư phòng. Hoàng tử Duy Cận còn trẻ tuổi, cung kính đứng bên cạnh vua cha, đầu không ngẩng lên. Khản và Thiều thi lễ xong thì dâng lên bức “Tống sơn đồ”. Thái giám trong cung phải dùng tám người đỡ mới trải hết bức tranh của Thiều. Bức tranh khiến vua Cảnh Hưng vốn chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì, chỉ muốn được yên thân giữ ngai vị, phải đứng bật dậy. Duy Vỹ đứng bên cạnh đưa mắt khắp giang sơn tú lệ trong bức tranh, chau mày xiết chặt nắm tay để kìm lại hùng tâm tráng trí đang cuồn cuộn dâng trào trong lòng. Duy Vỹ nhìn thẳng vào khuôn mặt thanh tú của Thiều, không thể ngờ được ẩn sâu dưới vẻ ngoài bất cần của trang tài tử nổi tiếng Long thành lại là chí khí dường ấy. Duy Vỹ toan cất lời khen bức tranh nhưng Khản đưa mắt nhìn, khẽ lắc đầu ra hiệu. Thái tử đành im lặng. Tất cả đều không qua được con mắt của ông vua già. Ngài nheo nheo mắt đã hằn vết chân chim, lim dim không rõ là say sưa theo nét vẽ hay đang suy ngẫm điều gì, hoặc là đang dò xét Thiều. Vua khoát tay ra hiệu cho thái giám cuộn bức tranh lại rồi hỏi Thiều: - Nếu trẫm nhớ không nhầm, họ Nguyễn Gia là thông gia thân thiết với họ Trịnh, đúng không? - Dạ muôn tâu thánh thượng! – Thiều cúi đầu thưa – Tĩnh Đô vương và thần là anh em họ, từ nhỏ thần cùng lớn lên với Tĩnh Đô vương trong phủ chúa. - Chức hiệu úy của khanh có được thỏa chí không? – Đức vua gằn giọng hỏi. Thiều im lặng chốc lát, Khản lo lắng nhìn sang phía Thiều, chỉ e Thiều với bản tính phóng túng của mình sẽ nói gì đó thất thố. - Dạ thưa, đời người thăng trầm khó đoán, tước vị cao thấp chẳng qua cũng chỉ là cơn sóng dồn dập rồi lại tan biến! Thần không mong cầu quyền chức, thần chỉ mong được đóng góp chút tài mọn cho giang sơn Đại Việt… - Giang sơn Đại Việt? – Vua Cảnh Hưng lẩm bẩm – Giang sơn Đại Việt… chẳng phải do nhà họ Lê ta giành lấy hay sao? Rồi bất chợt, vua cười lên ha hả. Tiếng cười đầy vẻ quỷ dị, vừa đau đớn lại vừa lạnh lẽo. Khản chứng kiến đoạn đối thoại của đức vua và Thiều thấy thêm phần lo lắng. Xưa nay, điều vua Cảnh Hưng tâm niệm nhất không phải là giữ giang sơn Đại Việt mà là giữ giang sơn của hoàng tộc họ Lê. Vua cần họ Trịnh không phải vì họ Trịnh có lợi cho Đại Việt mà vì họ Trịnh có lợi cho nhà Lê. Duy Vỹ bấy giờ đứng bên cạnh, lên tiếng đỡ lời, cắt đứt tràng cười của vua Cảnh Hưng: - Dạ thưa phụ hoàng, nhi thần đọc trong “Lã lãm” thấy có câu: “Thiên hạ không phải của nhà nào, thiên hạ là của người trong thiên hạ”. Họ Lê chúng ta cai quản thiên hạ là bởi thiên hạ quy thuận các vị Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, do các vị tiên đế cứu vớt thiên hạ, mang lại điều lợi cho thiên hạ. Xưa nay đều là thế, được lòng thiên hạ thì sẽ có cả thiên hạ, mất lòng thiên hạ thì cũng khó mà giữ được tông tộc. - Hỗn xược! – Vua Cảnh Hưng đập mạnh tay lên long kỷ. Nguyễn Khản thật muốn lắc đầu mà cao chạy xa bay để được toàn mạng. Nguyễn Gia Thiều rồi đến thái tử Duy Vỹ đều thật biết cách khiến người khác phải đề phòng. Khản vội vã chắp tay tâu: - Dạ khởi bẩm hoàng thượng, thiên hạ là của người trong thiên hạ, nhưng giang sơn là của hoàng thượng, giang sơn có được hùng vĩ hay không là nhờ uy của hoàng thượng! Miệng lưỡi của Khản ngọt như mật nhưng cũng đắng như thuốc, vua Cảnh Hưng sao lại không hiểu giọng điệu vừa xoa dịu vừa bỡn cợt của Khản. Nhưng vua không thể manh động trừng phạt Khản. Phần vì thế lực của Khản trong triều không nhỏ, lại là phe đảng duy nhất có thể đối trọng với Tĩnh Đô Vương. Với vua Cảnh Hưng, triều đình muốn yên thì phải có phe phái kìm hãm nhau, khi nào không còn ai kìm hãm ai được nữa thì đó là lúc đại loạn. Khản dùng bức tranh lấy cớ để tiến cử Thiều, để lôi kéo Thiều từ phe của Tĩnh Đô Vương sang phe của mình, với vua Cảnh Hưng cũng chẳng có hại gì cho địa vị của ông. Ông quay sang hỏi hoàng tử Duy Cận bấy giờ vẫn im lặng: - Cận, con nói xem, ta nên ban thưởng gì cho quan hiệu úy Nguyễn Gia Thiều? Hoàng tử Duy Cận vẫn không ngẩng đầu, chắp tay thưa: - Dạ thưa phụ hoàng, quan hiệu úy là chức quan tứ phẩm, chức vị như vậy ở độ tuổi của quan hiệu úy đây đã là hiếm có rồi ạ! Kim ngân châu báu thì trong phủ Nguyễn Gia cũng không hề thua kém hoàng cung, quả thật con không nghĩ ra được phần thưởng thích hợp ạ! Câu nói của Duy Cận khiến vua nheo mắt nhìn Thiều kỹ hơn. Bấy lâu nay, vua không để ý rằng họ Nguyễn Gia lại lớn mạnh như thế. Với tài năng của Thiều, triều đình có lẽ sẽ không chỉ có cha con họ Nguyễn ở Tiên Điền của Khản là đối thủ của Tĩnh Đô Vương, mà chỉ vài năm nữa thôi Thiều cũng sẽ là hổ dữ chốn quan trường. Vua Cảnh Hưng cứ thế nuôi hổ cho lớn, để chúng cắn xé nhau, đó là thuật quân vương mà ông được học. Vua Cảnh Hưng lại nhìn chòng chọc vào Thiều, hỏi: - Quan hiệu úy, trẫm hỏi ngươi, cảnh núi sông ngươi vẽ là ở đâu? - Dạ bẩm hoàng thượng, đó là cảnh đất Tống ạ. Đất Tống thời Xuân Thu chính là nằm ở phủ Khai Phong, Hà Nam của phương Bắc. Ở đây bốn bề núi cao trùng điệp, sông cuồn cuộn chảy thênh thang, thật là tuyệt đẹp. Thần mượn cảnh núi sông kỳ vĩ ấy để vẽ ra muôn dải giang sơn trong tranh ạ! Vua gật gù: - Ừm… tranh đẹp lắm… cảnh đẹp lắm… bút lực xuất thần… Nhưng trẫm hỏi khanh, núi sông nước Việt ta so với núi sông của phương Bắc thì ra sao? - Dạ thưa, không thể so sánh được ạ! – Thiều đáp. Vua chau mày: - Ngươi nói thế là sao? Nguyễn Khản lại một lần nữa phải đỡ lời cho Thiều: - Muôn tâu hoàng thượng, ý của quan hiệu úy đó là núi sông phương Bắc rất hùng vĩ, quan hiệu úy mong muốn nước ta cũng được vĩ đại như phương Bắc, và để giang sơn của ta được như vậy lại cần nhờ vào uy đức của hoàng thượng! Vua Cảnh Hưng bật cười. Vẫn là câu nói vừa là thuốc vừa là mật ấy của Khản, vẫn cứ là vua không thể trách tội được. Vua xua tay: - Trẫm mong đợi quan hiệu úy dâng lên cho ta cảnh giang sơn Đại Việt cũng phải được hùng vĩ và tráng lệ như thế này! Lúc ấy, ta sẽ ban thưởng lớn cho quan hiệu úy! Khản và Thiều cùng quỳ xuống tạ ơn. Vua Cảnh Hưng xua tay cho lui ra ngoài. Lúc này trời cũng đã xế chiều. Ánh tà dương vàng rực sân rồng như dát vàng toàn bộ không gian. Thiều bước đi rất nhanh khiến Khản phải gấp gáp chạy theo sau. Khản biết tính Thiều thích chậm rãi, vội vã như vậy là vì trong lòng Thiều thấy phẫn nộ. Ra khỏi cửa hoàng cung, Thiều đứng lại, hít một hơi dài rồi thở hắt ra. Bấy giờ, Khản mới đến gần, thở hồng hộc vì mệt: - Đã bớt giận chưa? Thiều cắn chặt môi, giọng chua chát, nói một tràng dài: - Ông ta thì hiểu gì về tranh chứ? Một bức tranh giang sơn tuyệt đẹp thì phải chọn dãy núi đẹp nhất, dòng sông mạnh mẽ nhất, bất kể chúng ở đâu. Non nước Đại Việt cũng đẹp đó, nhưng kém phần hùng tráng, sao có thể đại diện cho hùng tâm tráng chí cho được? Đem một giang sơn dâng cho ông ta, ông ta lại hỏi về gia thế của họ Nguyễn Gia, như vậy là có ý gì? Tĩnh Đô Vương tuy tham lam vô độ, nhưng còn biết trọng dụng nhân tài, không chấp nhặt tiểu tiết. Có vị vua như vậy, nhà Lê đến thời mạt vận rồi! Khản bịt miệng Thiều lại, mắng: - Trước cổng hoàng cung dám buông lời phản nghịch, muốn bị tru di cửu tộc hay sao? Thiều bực bội gạt tay Khản ra, cau mày: - Việc con đã hứa với thầy, con sẽ hết tâm hết sức, nhưng ai xứng với bức tranh giang sơn của con, con vẫn còn chưa quyết định được!

Chú thích: (1) Trích bài thơ Nôm “Tự thuật” của Lê Thánh Tông