Chương 15 Cống Chỉnh
Việp quận công dẫn quân ra trận, hợp quân cùng Xuân quận công, tiến công vào nam. Hoàng Đình Bảo cũng được phong làm Huy quận công, cùng với Việp quận công và Xuân quận công tiêu diệt Tây Sơn. Tham gia cuộc chiến còn có Đoan quận công Bùi Thế Đạt, đốc trấn Nghệ An, chính là nhạc phụ của Nguyễn Gia Thiều. Như vậy, trong lần tiến quân này, Tĩnh Đô vương đã cố gắng cân bằng lưc lượng, để các quận công kiểm soát lẫn nhau. Đại binh, đâu có dễ trao vào tay kẻ nào! Kinh thành trở nên thanh bình đến lạ! Kinh thành giờ đây chỉ có quân tam phủ càn quấy, nhưng chúng đều sợ uy của Nguyễn Gia Thiều, cũng không dám manh động. Nguyễn Khản đi dạo dọc những con đường phồn hoa, chỉ hai tên lính hầu đằng sau, vừa đi vừa hít thở bầu không khí thanh nhàn hiếm hoi ở kinh thành. Không có đám người Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đình Bảo, Tĩnh Đô vương rất mực trọng dụng Khản và Thiều. Vương giao cho Thiều tập hợp văn nhân tài tử để chọn ra những bài hay nhất, khắc thành bia trong vương phủ. Thiều lập tức nhận lời, biến phủ hiệu úy thành một nơi qua lại của đám tao nhân mặc khách. Khản nhìn cảnh ấy, thầm nghĩ trong đầu: “Đất kinh kỳ quả nhiên chỉ hợp với người nho nhã, đám phàm phu tục tử như cha con họ Hoàng quả thực chỉ làm nhơ bẩn đất kinh kỳ!” Khản nhìn thấy Ngô Thì Chí, con trai của quan hiến sát Ngô Thì Sĩ, đang bước vào cổng phủ của Nguyễn Gia Thiều. Khản không khỏi lấy làm thú vị : “Ngô Thì Sĩ chẳng phải khinh miệt loại người phóng đãng như ta và Thiều, tại sao con trai út của ông ta lại đến tham dự hội văn nhân ở phủ hiệu úy thế này?” Ngô Thì Chí là một thanh niên khôi ngô, đôi mắt hừng hực nhiệt huyết, khác hẳn vẻ văn nhược của cha mình. Văn chương dòng họ Ngô trước giờ vẫn tự xưng là đệ nhất thiên hạ, coi trọng lẽ “Văn dĩ tải đạo”, vốn không ưa lối văn chương nhàn dật mà Khản và Thiều chủ trương. Chí không thể không biết điều này, tại sao lại có hứng thú với buổi đàm đạo mà Thiều tổ chức? Khản lại thấy Cống Chỉnh cũng ngông nghênh phe phẩy quạt bước vào phủ của Thiều. Cống Chỉnh mặc áo the đen, tương phản với nước da trắng xanh như vỏ trứng. Chỉnh là tâm phúc của cha con Hoàng Ngũ Phúc và Hoàng Đình Bảo, ô hay, thế nào cũng tới chỗ văn thơ nhàn nhã này để khoe tài. Loại người như Chỉnh chính là loại người mà Khản hiểu rõ nhất. Hoàng Ngũ Phúc sử dụng Chỉnh để qua lại với đám văn nhân tài tử nghèo khó mong muốn có một danh phận. Dưới sự bảo hộ của Ngũ Phúc, Chỉnh cũng có dưới trướng một bầy văn sinh ngưỡng mộ, chỉ mong được Chỉnh tiến cử lên Việp quận công. Chỉnh tới chỗ Thiều có nhiều lý do, thứ nhất là để thăm dò về Thiều, thứ hai là để dòm ngó xem loại người nào Thiều trọng dụng rồi sẽ tìm cách mua chuộc và thuyết phục để phò tá Việp quận công, thứ ba cũng là bởi Chỉnh thích những nơi ăn chơi thanh nhã như phủ hiệu úy mà đất kinh kỳ chẳng mấy nơi có được. Văn nhân tài tử đất kinh kỳ cũng có đến cả trăm người tới phủ. Thiều không ra mặt, chỉ cho ca nương hát ở thủy đình. Đám văn nhân tài tử được tha hồ viết văn đề thơ, đến cuối buổi Thiều sẽ xem và chọn ra người xuất sắc nhất. Khản đương nhiên biết Thiều sẽ biến mất khỏi chỗ đông người, chỉ là không biết Thiều đã biến đi đâu. Thấy Khản bước vào phủ, tất cả đám văn nhân đều trầm trồ và thi lễ đúng phép tắc. Khản là người đáng ngưỡng mộ nhất đương thời của giới văn nhân, cho dù có kẻ ganh ghét nhưng không thể không tỏ lòng nể phục. Khản cũng cung kính chào các danh sĩ theo lễ rồi nói: - Quan hiệu úy Nguyễn Gia Thiều đã chuẩn bị phường ca nương, rượu hảo hạng, bút nghiên loại tốt nhất để có thể giúp quý vị thỏa sức gửi gắm tâm can. Phường hát lần lượt bước vào thủy đình. Ca nương đi trước, thầy đàn theo sau. Khản lập tức nhận ra Thiều đã hóa trang làm thầy đàn, khiêm tốn ngồi một góc, im lặng so dây, đôi mắt tựa như không quan tâm đến đám nho sinh đang xúng xính đợi khoe tài. Đàn vang lên điệu lạ, buồn hiu hắt. Tiếng trầm kéo tụt mọi hứng chí. Khản mỉm cười ngồi ở ghế cao nhất trong thủy đình, mắt lim dim nghe điệu nhạc. Ca nương hát: “Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu” (1) “Giang mạc mạc” – “Diệp tiêu tiêu” cứ âm âm vang vang trong khung cảnh tịch mịch của phủ hiệu úy. Khản đưa mắt nhìn tất thảy nho sinh tại đó. Họ đã bắt đầu mài mực. Nhìn phong thái, quả nhiên chỉ có Ngô Thì Chí là có cốt cách. Trong lúc chàng mài mực, vẻ thanh nhàn lộ rõ. Những nho sinh khác đều trở nên vụng về bất thường bởi tiếng đàn hát. Khản đưa mắt nhìn Chỉnh. Thao tác của Chỉnh mài mực vẫn rất đều đặn, nhưng trán hơi nhăn. Chỉnh bắt đầu viết một bài văn trên giấy trắng. Nét chữ gân guốc. Bài văn luận về ý chí của loài chim bằng tiêu diêu tự tại, con chim bằng trong “Nam hoa kinh” nương theo gió lốc. Chỉnh cho rằng đã là chim bằng thì đâu phải câu nệ tiểu tiết, hành sự vì việc lớn đâu cần phải suy tính đến trước sau, ấy chính là tiêu diêu tự tại. Câu văn thanh thoát, lời văn bóng bẩy, ý văn rõ ràng. Qủa khiến người ta thán phục. Các nho sinh khác đọc văn chương của Chỉnh đều tấm tắc khen. Khản trầm ngâm đọc bài văn luận về chim bằng của Chỉnh, im lặng chẳng nói gì. Chỉnh phe phẩy quạt tự đắc, rồi đến gần cúi mình hỏi: - Mong quan đại học sĩ cho tiểu sinh vài lời vàng ngọc! Khản hết vẻ trầm ngâm, bật cười: - Chim bằng thì quan tâm tới vàng ngọc làm gì! Đám nho sinh ở đó cười rộ lên. Chỉnh hơi bặm môi rồi lấy lại vẻ thư giãn, cũng cười nói: - Vàng cao quý thì không phải là vàng, ngọc cao quý thì không phải là ngọc. Mỗi lời của đại học sĩ với kẻ hàn nho như tiểu sinh chính là mắt xanh chọn thanh từ tục vậy! Khản nhún vai: - Ta chẳng qua chỉ là cơn gió, gió thì đâu phân cao quý hay thấp hèn. Chim bằng thích bay cao thì cứ bay cao, chim sẻ thích tránh gió thì cứ tránh gió. Gió không bàn về cách bay! Nói rồi, Khản đi đến xem văn bài của các nho sinh khác. Bài của nho sinh khác, Khản đều cầm bút bình điểm. Khản đi đến chỗ của Ngô Thì Chí. Cả buổi, Chí im lặng. Các nho sinh tấm tắc khen văn tài của Chỉnh, Chí cũng im lặng. Khản nhìn vào tờ giấy, chỉ vỏn vẹn một chữ Dịch. Chí nhìn Khản với ánh mắt hoàn toàn thản nhiên. Ở độ tuổi còn trẻ như chàng, có ánh mắt thản nhiên ấy, thật hiếm hoi. Khản nhìn ánh mắt ấy lại nhớ đến cái thời trai trẻ của Thiều và của mình. Tuổi ngày càng nhiều, ánh mắt thản nhiên ấy đã phai mờ mất. Khản bất giác lắc đầu rồi bỏ đi. Đám nho sinh xì xào nhưng Chỉnh thì lại đặc biệt quan tâm. Chữ Dịch của Chí gọn gàng, vuông vức, rắn rỏi, khác hẳn bút pháp thường thấy của họ Ngô. Chỉnh lại thấy Chí không xun xoe như những đám nho sinh khác, nên cúi người làm quen. Chí vẫn bất động như pho tượng ngọc, cũng không buồn chào lại. Thái độ của Chí khiến Chỉnh tắt ngay nụ cười trên môi. Tất cả cảnh tượng ấy đều không qua được mắt của Nguyễn Gia Thiều. Chàng ra hiệu cho ca nương dừng hát. Chàng so lại dây đàn, rồi cũng cất tiếng ca. Giọng chàng chậm rãi, thư thái nhưng vẫn vọng xa gần, quyện vào tiếng đàn ám ảnh: “Áng công danh sá cắp tay Nhiều phen đã khỏi tiếng tai bay Hoa mai bạc, vì trăng tỏ Bóng trúc thưa, bởi gío lay Ưu ái chẳng quên niềm trước Thị phi biếng nói sự nay. Ðã từng trải sơn hà hết, Ðường thế nhiều nơi hiểm hóc thay!” (2) Tiếng hát của Thiều khiến Chí đặc biệt chú ý. Mặc dù Thiều rất có tiếng ở kinh kỳ nhưng Chí lại chưa có cơ hội gặp mặt, bởi vì ngoài những lúc làm công vụ, chẳng mấy khi người ta nhìn thấy bóng dáng Thiều. Sự chú ý của Chí cũng khiến Chỉnh nhìn theo. Chỉnh thầm nghĩ: “Làm sao một thầy đàn thông thường có thể biết được bài thơ của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm được. Ở đây xa quá, ta nhìn không rõ mặt, nhưng dáng người cao lớn ấy, nom cũng giống quan hiệu úy lắm! Ta nghe quan hiệu úy là kẻ trọng tài hơn hết, cứ nên thể hiện tài trí của mình là hơn!” Chỉnh bước nhanh đến trước cúi mình thi lễ: - Tiểu sinh xin được bái kiến quan hiệu úy! Thiều thở dài, đặt cây đàn xuống. Chàng đứng dậy, chắp tay chào các nho sinh. Chàng nói: - Hôm nay có các vị danh sĩ trẻ tuổi ở kinh thành tới nghe ta đàn hát, lại phóng tác biết bao tuyệt tác, quả thực là hân hạnh. Các văn bài của quý vị sẽ được gửi tới phủ Tĩnh Đô vương. Văn bài hay nhất là của Hữu Chỉnh, sẽ được vương trọng thưởng. Đại Việt ta có được nhân tài như Cống Chỉnh và các vị đây quả là diễm phúc. Chí cúi mặt cười buồn, xếp lại bút nghiên, định lặng lẽ rút đi thì Thiều đã lên tiếng: - Ta nghe Ngô gia đều là những nhân tài xuất chúng, nhưng không hiểu vì lẽ gì nhị công tử của Ngô gia lại chỉ viết một chữ “Dịch”, có phải là do tiếng đàn của ta khiến công tử bấn loạn quá chăng? Ngô Thì Chí ngỡ ngàng lúng túng chưa biết nói gì thêm thì Thiều đã tiếp lời: - Bây giờ đã muộn, xin mời quý vị tới Nhất Phẩm lâu cùng đại học sĩ uống chén rượu. Riêng nhị công tử của Ngô gia, xin mời ở lại, hoàn thành văn bài để ta trình lên Tĩnh Đô vương, không thể chậm trễ! Cống Chỉnh và đám nho sinh lục đục theo Nguyễn Khản tới Nhất Phẩm lâu để dự tiệc. Chỉ có Ngô Thì Chí phải ở lại, tiếp tục mài mực để viết nốt văn bài. Thiều cũng nán ở lại. Đám nho sinh đi hết, Thiều đi đến gần Chí, nói: - Giờ chỉ có hai chúng ta! Công tử có điều gì muốn bày tỏ với ta? Ngô Thì Chí cúi mình chào: - Qủa không hổ danh là tài tử bậc nhất kinh kỳ! Thiều mỉm cười: - Ta đâu dám nhận danh hiệu đệ nhất, Ngô gia chẳng phải trước giờ vẫn luôn là thống soái của văn đàn hay sao? Ngô Thì Chí lắc đầu: - Kẻ gánh vác nhiều trọng trách thì chẳng thể là thống soái. Như Ngô gia nhà tôi, dù tên tuổi lẫy lừng, bất kể là hèn yếu khúm núm hay ngông nghênh tự đắc, chẳng qua cũng chỉ là văn nô của một thời đại thôi. Thiều vỗ tay đắc ý: - Nói hay lắm! Vậy rốt cuộc, công tử muốn gì ở một kẻ như ta? Chí tiếp lời: - Từ nhỏ tôi yêu thích việc chép sử. Đọc Kinh Xuân Thu, đọc Sử Ký, lòng không khỏi cảm động. Tôi lại đọc quyển “Đại Việt sử ký toàn thư” của quan đại phu Ngô Sĩ Liên, nhiều ngày mất ăn mất ngủ. Lẽ thịnh suy ở Đại Việt ta sao mà chóng vánh đến thế. Tại sao hai thời Lý và Trần thịnh trị đến vậy, tôi cũng tự hỏi liệu ta đang sống ở thịnh thế hay suy vi? Có phải lẽ thịnh suy là tùy tâm ta định đoạt hay chăng? Với người này là thịnh, với kẻ khác là suy, rồi thì thịnh suy ấy sẽ dẫn đến đâu. Mọi biến dịch của thời thế không sao rạch ròi được. Thiều im lặng hồi lâu. Những suy nghĩ ấy sao mà quen thuộc quá. Chàng chẳng phải đã từng có một thời như thế hay sao? - Thịnh hay suy, thị hay phi, thì cũng có sao đâu. Thuận theo thời thế thì thắng, nhưng cái thắng ấy đáng hổ thẹn. Ngược theo thời thế thì thua, nhưng cái thua ấy lại chẳng thẹn lòng mình. Thắng hay thua, thẹn hay không thẹn, chẳng qua cũng thế mà thôi. Công tử còn trẻ tuổi, còn suy nghĩ nhiều, ước vọng nhiều. Ta đã chẳng còn trẻ nữa, chẳng suy nghĩ gì mà cũng chẳng ước vọng gì hết, chỉ muốn có vài người bạn đàm đạo, được vui đàn ca thơ phú, chẳng mộng mị gì hơn! Công tử về đi, văn bài cũng không cần làm nữa! Thiều quay lưng bỏ đi. Chí nhìn theo bước đi của Thiều, không cam tâm, gọi giật lại lớn tiếng: - Nguyễn Gia Thiều, ông đã quên cái chết oan ức của thái tử rồi ư? Thiều không ngoái đầu nhìn lại, vẫn bước đi, chỉ để lại một câu nói: - Nhớ thì đã sao mà quên thì đã sao?
Chú thích: (1) Trích bài thơ “Vãn hứng” của Nguyễn Trãi (2) Trích bài thơ “Đường đời hiểm hóc” của Nguyễn Bỉnh Khiêm