Chương 16 Thế tử Trịnh Tông
Hành cung của Thế tử Trịnh Tông ở dưới chân Tử Trầm Sơn đã xây dựng xong. Hành cung tuy không bề thế như vương phủ nhưng cũng có thể không hổ danh là cung của họ Trịnh. Nàng Hoan đã mời từ hai vùng Hoan, Ái những phường thợ giỏi nhất để xây dựng nơi đây. Những phường thợ này đều do Nguyễn Khản tiến cử. Ngày thế tử chính thức chuyển đến hành cung, Tĩnh Đô vương mải bận việc quân nên không tới. Tĩnh Đô vương cử Nguyễn Khản và hai cha con nhà họ Ngô tới để thăm thú hành cung và bắt đầu dậy dỗ thế tử. Thế tử bấy giờ đang vào độ tuổi thiếu niên nhưng đã lộ vẻ khôi vĩ cường tráng. Đôi mắt cậu bé lúc nào cũng sáng quắc, vầng trán cao rộng kiêu ngạo, hành vi đã thể hiện rõ sự phân biệt ngôi thứ. Trịnh Tông đi trước, Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm đi sau, rồi mới tới Nguyễn Khản, và cuối cùng là hai hàng quân hầu. Nguyễn Khản muốn giữ một khoảng cách với thế tử, để quan sát thế tử được rõ hơn. Nhìn từ đằng sau, Khản thấy thế tử lưng thẳng, vai nhô cao, bước đi bệ vệ.. Tướng đi ấy hẳn chẳng phải của kẻ văn nhược yếu đuối. Khản lại nhìn sang Ngô Thì Nhậm. Nhậm là con trai cả của Ngô Thì Sĩ. Người này học hành giỏi giang, đỗ đạt và vinh hiển, lại thêm được Tĩnh Đô vương sủng ái, chẳng kém gì Khản. Nhậm thường thâm trầm, ít nói năng, nét mặt không lộ vui buồn, nên người ngoài không dễ đoán được thực bụng. Nhậm nổi tiếng trong đám danh sĩ Bắc Hà trẻ tuổi. Danh sĩ Bắc Hà toàn thế cả, trầm tĩnh mà sâu xa khó dò, thở ra toàn triết lý cửa Khổng sân Trình, dáng vẻ khi nào cũng cung kính giữ lễ, hoàn toàn đối lập với sự sôi nổi và hào khí của đám Nho thần xứ Hoan như Khản. Ngoại trừ Nguyễn Gia Thiều, đối với đám danh sĩ Bắc Hà, Khản vẫn giữ một khoảng cách. Và đương nhiên, Khản càng chẳng thể quên được ly trà nhạt mà ông già Ngô Thì Sĩ đã mời hôm nào. Tới thư phòng, thế tử ngồi chính giữa, hai cha con họ Ngô ngồi một bên, Khản ngồi một bên. Trịnh Tông nói thẳng: - Ta vốn chỉ thích làm võ tướng tung hoành thiên hạ, Khổng Tử có giúp ta trở thành võ tướng được chăng? Hai cha con họ Ngô nhìn nhau, còn Khản chỉ khẽ mỉm cười. Ngô Thì Nhậm chắp tay tâu: - Thưa thế tử, cái học của đức Khổng Tử là để giúp võ tướng biết cách tiêu diệt địch thủ nào và biết bảo vệ điều gì! Thế tử nghe cũng gật gù. Đương nhiên với đứa trẻ như thế tử thì những điều mà Nhậm nói vẫn còn quá mơ hồ. Ngô Thì Sĩ thấy Khản từ bấy giờ im lặng, liền hỏi: - Bình thường vẫn thấy quan đại học sĩ có nhiều chủ ý, tại sao hôm nay lại im lặng như vậy? Khản đứng dậy, ngó qua cửa thư phòng. Từ của thư phòng có thể nhìn thấy núi Tử Trầm đang vươn lên nền trời xanh. Trịnh Tông thấy Khản nhìn ra ngoài, cũng ngó theo, nhưng vẫn chẳng hiểu sự gì đang diễn ra. Ngô Thì Sĩ nhíu mày nhìn Khản ra chừng khó chịu nhưng vẫn không lộ rõ trên nét mặt, lại cười ruồi: - Phong lưu đại thần quả thực là phong lưu đại thần, e rằng cảnh đẹp của Tử Trầm Sơn đã cuốn hút quan đại học sĩ rồi! Khản quay lại, cúi mình xin lỗi: - Tôi thực là thất thố quá! Tôi chỉ muốn nhìn ra ngoài xem, đỉnh núi Trầm kia, so với bầu trời thì ai cao ai thấp mà thôi… Nói đoạn, Khản lại cao giọng thuyết: - Lời của đức Khổng Tử là dựa trên đạo trời. Khổng Tử như ngọn núi kia, sừng sững đó, vững chãi đó, nhưng chẳng thể sánh với đạo trời tựa thinh không. Nghe theo lời Khổng Tử thì như trèo lên ngọn núi để ngắm nhìn trời cao, sao bằng như cánh chim tung bay giữa trời, có thể thâu cả thiên hạ vào tầm mắt. Thưa thế tử, sách Khổng cũng được, không phải sách Khổng cũng được, miễn là thế tử có ý chí như loài chim bằng, Khản tôi xin hết sức phò tá! Trịnh Tông reo lên: - Hay lắm! Lời ông chính hợp ý ta! Ngô Thì Sĩ biến sắc, nhưng Nhậm thì không. Khản liếc mắt nhìn Nhậm, khẽ hừ một tiếng trong cổ họng. Khản thầm nghĩ: “Ngô Thì Nhậm… người ấy sau này nhất định sẽ làm nên nghiệp lớn. Nhưng ông ta liệu có cùng một chí với ta hay chăng?” Khản tiếp lời: - Tuy nói là vậy, trước khi đủ lông đủ cánh, thế tử cứ nên học trèo núi. Lên tới đỉnh cao của núi để ngắm mây trời lồng lộng. Muốn biết được đạo trời, vẫn cứ là nên theo sở học của đức Khổng Tử. Tiên sinh Ngô Thì Nhậm đây là bậc túc nho, sẽ cùng với tôi phò tá thế tử. Thế tử nên cố học theo lời của ông Nhậm. Thế tử Trịnh Tông tỏ vẻ không vui, nhưng lệnh của cha thì không thể cưỡng. Hơn nữa, thế tử cũng thương mẹ mình nhiều năm bị cha thất sủng, bị các cung tần khác coi thường, giờ đây, mới hơi có một chút ân sủng, nên phận làm con càng phải cố gắng nhiều hơn. Khi Trịnh Tông mới ra đời, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm vẫn là thế tử, ngúng nguẩy không muốn nhận đứa con trong cái đêm nhầm lẫn ấy, nên cố tình lờ đi, thậm chí còn chẳng thèm đặt tên. Thấy vậy, An Vương Trịnh Doanh bèn làm bốn câu thơ: “Lân đã hiện rồi vinh quốc công Thiên hoàng nay đã tỏ dòng trong Siêu phàm có được nhờ nhân hậu Vui cả sơn hà bàn thạch tông.” Rồi lấy luôn chữ Tông để đặt cho đứa bé. Cái tên Tông, ý muốn nói sau này đứa bé sẽ như kỳ lân giáng thế, tạo phúc cho thiên hạ, giúp họ Trịnh vững bền tựa bàn thạch. Trịnh Sâm càng không vui. Với Tĩnh Đô vương, mẹ con Trịnh Tông vẫn là cái gai trong mắt. Thay vì để Trịnh Tông lập phủ đệ ở kinh thành, lại đẩy ra ở cái xó núi này, ắt là chẳng thèm màng đến. Nguyễn Khản cũng biết tình thế ấy của mẹ con Trịnh Tông, nhưng Khản khuyên nàng Hoan cứ đội ơn Tĩnh Đô vương mà nhận lấy. Giữ tính mạng, dù sao cũng quý báu hơn giữ lấy cái hư danh thế tử. Hơn nữa Trầm Tử Sơn vốn là nơi luyện binh của triều đình, chẳng phải rất thuận tiện đủ bề hay sao? Chỉ là Khản không yên tâm với sự có mặt của Ngô gia. Ngô gia trước giờ vẫn cúc cung với Tĩnh Đô vương, bất chấp thị phi. Ngô Thì Sĩ tiến thân được là nhờ khi xưa làm thầy cho Trịnh Sâm, cũng nhờ Trịnh Sâm nâng đỡ mà đỗ đạt, nên dù nhiều lần thấy Sâm làm việc trái tai gai mắt cũng giả mù giả điếc cho qua. Trước đó, mẹ của Trịnh Sâm cũng nhờ Sĩ bày mưu mà được Ân vương ân sủng. Nhưng Khản cũng không lạ, danh sĩ Bắc Hà thảy đều vậy, phò thịnh lánh suy, cốt sao cho giữ được cái địa vị của gia tộc. Khản giờ đây cũng chẳng khác gì Ngô Thì Sĩ thời còn trẻ, cũng phò tá một bà phi và một thế tử chẳng được sủng ái, thế nên, họi hành vi của cha con họ Ngô, Khản đều thấu rõ. Hai người này hoàn toàn khác với chàng công tử hừng hực nhiệt huyết mà vẫn trầm tĩnh tựa sơn Ngô Thì Chí đã để lại tờ giấy trắng với chữ Dịch ở phủ hiệu úy. Tối ấy, Khản uống một trận rượu say, vừa múa kiếm vừa ngâm thơ, khiến thế tử Trịnh Tông vỗ tay thích thú. Gió hiu hắt luồn qua kẽ đá vào đến hành cung, khiến trăng lộ vẻ bạc, sương khói vùng sơn dã mịt mùng quẩn vào chân núi, càng tăng thêm vẻ đẹp của nơi đây. Hai cha con họ Ngô gượng gạo ngồi đợi hết cuộc rượu, chẳng tiện thất lễ để ra về. Khản nâng chén mời hết lượt rồi nói: - Rượu đã ngấm… cảnh đã đẹp… hôm nay, tôi cao hứng lắm, ý thơ lai láng, nhưng tứ thơ vừa vụt lên lại thấy hổ thẹn với ông đại phu họ Đặng. Thơ ông ấy hùng tráng lắm, mà cũng tình tứ lắm… xin được diễn Nôm ngâm tặng thế tử mấy câu. “Rồng bay chễm chệm ngôi trời, Sửa trong chính giáo mở ngoài đề phong. Dẫy xe nẩy việc đổng nhung, Cổ bề sấm dậy hịch lông sao truyền. Trượng phu nắng nỏ cung tên, Chăm bề quốc sự gác bên khuê tình. Vị Kiều giục giã đăng trình, Nước xanh lai láng cỏ xanh rầu rầu. Tiễn đưa treo một gánh sầu, Con thuyền nặng chở vó câu nhẹ bồn.” [1] Nghe tới đấy, Ngô Thì Sĩ tím mặt. Trong ánh đèn nhập nhoạng, cai cũng nhìn thấy được cơn giận của ông. Ông nhận ra vị đại phu họ Đặng ấy chính là Đặng Trần Côn. Trước khi Côn viết “Chinh phụ ngâm khúc”, văn tài của Ngô Thì Sĩ chính là số một trong số danh sĩ Bắc Hà. Nhưng từ khi có “Chinh phụ ngâm khúc”, Sĩ phải đắng lòng chịu đứng xuống hàng thứ hai. Nếu như chẳng may đại phu Đặng Trần Côn còn sống, thì ai sẽ màng tới Sĩ nữa? Đặng Trần Côn viết “Chinh phụ ngâm khúc” đã rút hết tâm huyết gan ruột, đem cả số mệnh mà đổi lấy thơ ca, nên yểu mệnh mà qua đời. Ấy cũng là cái may cho Ngô Thì Sĩ vậy. Việc Ngô Thì Sĩ cam chịu không sánh được với văn tài của Đặng Trần Côn, giai thoại ấy làng văn nho ai cũng biết, nhất là những kẻ ghen ghét sự thành đạt của Ngô gia lại càng xì xào bàn tán. Nguyễn Khản trước nay vốn chẳng quan tâm lời ra tiếng vào của đám hàn nho, nhưng từ sau khi bị Ngô Thì Sĩ mời uống chén trà nhạt, lòng vẫn bực bội. Chẳng mấy khi tìm được dịp lỡm họ Ngô thế này, Khản bèn phóng tác diễn Nôm mấy câu tả cảnh chia ly trong “Chinh phụ ngâm khúc”. “Tống quân xứ hề tâm du du Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu” Mà Khản diễn thành: “Tiễn đưa treo một gánh sầu, Con thuyền nặng chở vó câu nhẹ bồn.” Qủa thực là tài tình. Trước, Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm tài danh một thời diễn thành: “Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền.” Không thể bằng được, không thể bằng được! Ngô Thì Sĩ liên tục lắc đầu. Ông những tưởng bao năm Khản lăn lộn triều chính, đã ô uế tâm tư, thi tài mòn cụt, đến nay hóa ra Khản vẫn chẳng hề thay đổi. Ngô Thì Sĩ ho ho mấy tiếng, rồi cáo bệnh xin rút. Nhậm cũng mượn cớ hầu cha để về phòng. Nhậm dìu cha bước ra khỏi phòng tiệc. Khản vẫn say say tỉnh tỉnh vung kiếm ngâm nga. Thế tử Trịnh Tông cao hứng, cũng vung kiếm múa hát theo: “ Cầm bào rẽ rụt nỉ non, Gót vàng còn bận chén son nỡ lìa. Áng công danh quyết chí thề, Lâu Lan bủa lưới Man Khê cắm đồng. Long tuyền một cán vẫy vùng, Ngựa ô mây quẹn áo hồng ráng xuyên.” Cảnh ấy, tình ấy, thơ ấy, nhạc ấy khiến Ngô Thì Sĩ đầu đau như búa bổ, chân tay run lẩy bẩy. Nhậm buộc phải lên tiếng khe khẽ trấn an: - Xin cha đừng giận… Chẳng qua chỉ là kẻ phong lưu, lòng không thâm sâu, xin đừng lo ngại! Còn có con đây! Câu nói ấy rất khẽ, giữa tiếng đàn hát, nhưng không qua được tai Khản. Bao nhiêu năm ở trong phủ Tĩnh Đô, rồi trong triều đình, Khản đã nghiệm ra một điều: Nếu chẳng thể bày mưu sắp kế, thì cứ nên thính tai nhanh mắt là hơn cả. Thính tai nhanh mắt mới biết được lòng của thiên hạ.
Chú thích: (1) Trích bản dịch “Chinh phục ngâm khúc” (Đặng Trần Côn) của Nguyễn Khản.