Chương 25 Phố Hàng Đào
Hàng Đào vốn là khu phường buôn bán lụa và y phục nổi tiếng ở Kẻ Chợ. Từ thời Nhân Vương Trịnh Cương, Hàng Đào đã tấp nập hơn bao giờ hết, tấp nập cho đến bây giờ. Nhân Vương không để cả khu Kẻ Chợ thành bãi tập kết hàng hóa chuyển vào kinh thành giống như thời trước, mà sai người xây dựng cửa hiệu buôn bán sầm uất, đánh thuế rõ ràng. Từ đó, không chỉ Hàng Đào mà cả Kẻ Chợ đều trở nên giàu có, phồn vinh. Vương phủ họ Trịnh cũng nhờ thế mà cực thịnh. Thuận Vương Trịnh Giang kế vị, ăn chơi trác táng, không quan tâm đến chính sự, nhưng khối gia sản của họ Trịnh vẫn chỉ có tăng mà không có giảm. Những gì Thuận Vương phá hủy thì An Vương Trịnh Doanh lại hồi phục lại, quyền lực của vương phủ tuy không được như thời Nhân Vương nhưng xét về sự thịnh vượng thì vẫn chẳng hề suy kém. Tĩnh Đô vương lại càng nới lỏng buôn bán, cốt sao thu thêm thuế, nên lái buôn ở Kẻ Chợ ngày một đông, đến từ tứ xứ, có cả người Tây Dương lẫn người Nam Đảo, và đương nhiên không thể thiếu những đoàn người Minh Hương do phản Thanh phục Minh mà phải lưu vong xuống đất Việt. Xưa nay, đất Việt vẫn là chốn ẩn thân của người lưu vong từ phương Bắc. Từ thuở Hán – Đường, các gia tộc thất trận hoặc bị đi đày, đều lấy dải đất phía nam núi Ngũ Lĩnh làm nơi an cư, dựng lại cuộc đời. Tất thảy các tộc người từ Thục quốc, Điền quốc, Sở quốc… đều di tới Việt. Đất này xa xôi, được núi rừng che chắn, triều đình phương bắc chẳng thể kiểm soát. Tính như cuối thời Hán, phương bắc chìm trong cuộc chiến Tam Quốc thì đất Việt vẫn yên bình, trở thành một nơi thịnh vượng dưới sự cai trị của Sĩ Vương. Về sau, khi Trung Nguyên bị giặc Thát chiếm, quân tướng nước Tống cũng tới Đại Việt nương nhờ. Đến giờ, nhà Thanh vốn là giống Tiên Ti chiếm Trung Nguyên, người Trung Nguyên theo lên thuyền xuôi biển xuống phía nam, âu cũng là theo thói tiền nhân. Các vị tiên vương của Đại Việt trước giờ vẫn luôn dung nạp người phương bắc, bởi vì khi họ lưu vong đến đây mang theo thầy khéo thợ giỏi và những thương nhân biết buôn bán. Kẻ Chợ giờ đây nhiều người Minh Hương là vì lẽ ấy. Giữa phố Hàng Đào, nàng Bằng Cơ mở một tiệm, ban ngày bán lụa trúc, ban đêm mở chiếu hát ả đào. Quy mô rộng lớn, sang trọng; khách khứa đều là người trong triều đình và các thương gia giàu có. Sau đêm tân hôn, Nguyễn Gia Thiều ngất ở giữa đường, rồi đổ bệnh, Bằng Cơ cũng chẳng dám đòi hỏi ái ân. Thiều ra lệnh cho Bằng Cơ mở tiệm lụa ở Hàng Đào, vừa để nàng đỡ ở trong phủ sinh buồn rầu, lại vừa có thể thay Thiều thăm dò động tĩnh của gián điệp Tây Sơn trà trộn trong các phường buôn Minh Hương. Thiều dặn Bằng Cơ: - Nàng không phải lo ngại về tiền bạc và nguồn hàng, cứ thật rầm rộ, lụa bán chẳng cần phải quá đắt. Nếu thấy ở Hàng Đào có loại lụa, loại lĩnh nào đẹp thì cứ nhập về bán. Tìm mọi cách mua sạch nguồn hàng, không để hàng khác mua được. Nếu các nhà buôn khác đánh chửi nàng thì đã có ta lo. Trong số các nhà buôn ở Hàng Đào, nếu nàng thấy nhà buôn nào vẫn không lo lắng gì về cách làm ăn của nàng thì báo cho ta. Bằng Cơ không hiểu thâm ý của Thiều, nhưng nàng biết rằng đó là việc quan trọng. Trước giờ, nàng vẫn yêu tiếng đàn và những khúc ca của Thiều, nhưng chẳng hề được Thiều đoái hoài đến. Duyên gặp mặt dẫn đến nghĩa vợ chồng, dù Thiều chẳng chịu động phòng cùng nàng nhưng cái tình ấy vẫn khiến nàng quyến luyến. Nay được Thiều lo cho việc làm ăn, lại được Thiều giao trọng trách, dù gì cũng hơn là ở trong cô phòng. Giọng hát của Bằng Cơ mê hoặc cả Kẻ Chợ, các xóm ả đào đều ghen tị. Bằng Cơ thường hát khúc Cung oán do Thiều soạn và đã hát trong đám tang của quận chúa Ngọc Lan. “Lã chã mưa sa dế khóc thềm Sầu ngày chưa dứt lại sầu đêm Mưa tan tác liễu trôi ngần mặt Mốc võ vàng ve tạt bức rèm Mận chẳng sương đeo mà ủ dột Đào không nắng táp cũng tơi mềm Mối sầu này biết ai mà tỏ Có tỏ cho chăng một bóng thiềm” Nhiều tiểu thư đài các cũng học theo nàng hát khúc ấy, nhưng chẳng thể nào mà có được sự ai oán như nàng. Bằng Cơ còn tuyển những đào nương trẻ, hướng dẫn cách đàn hát bài bản, không theo cái lối tầm thường ồn ào dân dã, nên chẳng mấy chốc phường ả đào của nàng đã vang danh khắp chốn. Phường ả đào của Bằng Cơ cao giá lắm. Vương tôn công tử quý phái, thương gia sẵn bỏ ngàn lạng vàng, phường cũng không rời một bước khỏi tiệm. Ai muốn nghe thì tới Hàng Đào, tìm đúng tiệm vải có đề ba chữ “Cổ Nguyệt lâu” sau khi mặt trời đã xuống. Loại phong lưu gia thần như Nguyễn Hữu Chỉnh sao có thể cưỡng được sự mê đắm của Bằng Cơ. Chỉnh tối nào cũng tới nghe Bằng Cơ, cầm trống chầu, nện tùng cắc, đắc ý lắm. Chỉnh cũng biết đó là thiếp của Nguyễn Gia Thiều, nên vẫn có phần e ngại, chỉ có thể cố dùng dằng ở lại Cổ Nguyệt lâu để ngắm mĩ nhân. Bằng Cơ dù say sưa hát, nhưng mắt vẫn lúng liếng liếc nhìn khắp phòng và không quên chú ý Chỉnh. Có một ông chủ người Minh Hương vẫn thường chúc rượu Chỉnh. Chỉnh lạnh nhạt không quan tâm, nhưng ông chủ ấy vẫn tiếp rượu. Đám thư sinh nghèo đeo đuổi quan lộc vốn chẳng đủ tiền để vào Cổ Nguyệt lâu, nên Chỉnh xem ra hoàn toàn lạc lõng tại nơi phồn hoa khoái lạc này. Chỉnh là con trai một lái buôn xứ Nghệ. Trước khi Chỉnh ra đời, cha của Chỉnh nhờ chỉ điểm mà kiếm được mảnh đất Bằng Côn ở Hồng Lĩnh để táng mộ tổ. Từ đó, vận nhà càng phát, mà Chỉnh cũng ra đời. Dù làm gia thần cho Việp quận công và Huy quận công nhưng cuộc sống cũng phong lưu, không khổ cực. Danh phận của một hương cống không cao, nhưng Chỉnh cũng không muốn đỗ cao hơn, vì với Chỉnh mấy cái lý lẽ sách vở toàn là phù phiếm. Thời loạn, muốn thành anh hùng, chỉ cần quyền biến mà thôi, chữ nghĩa chẳng qua để thuyết phục nhân tâm, mà ở cái thời này, chữ nghĩa chẳng há rẻ rúng lắm ư ? Chữ nghĩa chẳng qua chỉ là trò vui tiêu khiển của đám quý tộc nhàn hạ như Nguyễn Khản, Nguyễn Gia Thiều mà thôi… Chỉnh không ưa nhất là những kẻ như Nguyễn Khản và Nguyễn Gia Thiều, tự cho mình là trong sạch còn người đời đều ô trọc cả. Những kẻ đó chẳng cần phải cố gắng, mới chào đời đã nghiễm nhiên có phận vị cao quý, có thiên phú hơn người. Còn như Chỉnh, cho dù tài quyền biến đến đâu cũng chỉ có thể mỉm cười làm gia thần dưới trướng họ Hoàng. Đêm ấy, Chỉnh thẫn thờ ngồi lại cho đến cuối buổi hát. Rồi ma xui quỷ khiến thế nào, rượu đưa nhạc đẩy, Chỉnh đến gần Bằng Cơ gãi đầu gãi tai: - Bằng Cơ phu nhân, ta… ta có thể… mỗi khi ta đến nghe… nàng có thể đừng hát khúc Cung oán của tướng quân nhà nàng được không! Ta nghe mà đau lòng lắm! Bằng Cơ mỉm cười, nụ cười tủm tỉm: - Nếu tiên sinh viết cho thiếp một khúc ca thì tiện thiếp cũng xin được hát hầu tiên sinh… Nhưng thiếp là hoa đã có chủ, nên những khúc phong hoa tuyết nguyệt của người khác viết tặng, thiếp không tiện hát! Chỉ mong tiên sinh giữ lễ! Chỉnh nghe thế liền biết Bằng Cơ đã nhìn ra tình ý của mình, và dường như nàng cũng không hề chối từ tình ý ấy. Chỉnh ngẫu hứng cầm cây đàn nguyệt, so dây, rồi gẩy hát khúc “Trương Lưu hầu phú”. “Trương Lưu hầu phú” vốn là khúc ca Chỉnh mới soạn ngay khi lần đầu được nghe Bằng Cơ hát. “Trương Lưu hầu phú” miêu tả Trương Tử Phòng thời Hán giúp Lưu Bang dẹp loạn, vừa có cái nhàn hạ tiên phong đạo cốt, vừa trọn vẹn công danh. Chỉnh cho rằng, chí làm trai phải như Trương Tử Phòng mới là đáng sống, sao phải lao đao như Gia Cát. Ca ngợi Tử Phòng nhưng thực ra Chỉnh đang tự vịnh chính mình. Bóng dáng của kẻ vừa “cao giá” nên “đủng đỉnh công hầu”, chẳng phải là khí phách của Chỉnh đó sao. Bằng Cơ nghe xong, thốt lên: - Điệu nhạc này kỳ công quá! Chỉnh đặt cây đàn xuống: - Nàng nói xem, tướng quân nhà nàng và Trương Tử Phòng, ai hơn ai kém? Bằng Cơ làm bộ ngẫm nghĩ, bật cười khúc khích: - Nếu tiên sinh muốn thiếp so tiên sinh với tướng quân nhà thiếp thì còn được, chứ thiếp đã gặp Trương Tử Phòng đâu mà biết ai hơn ai kém! Chỉnh gật gù: - Cũng đúng nhỉ! - Nếu so về tài thao lược thì tướng quân chắc hẳn là hơn tiên sinh… - Chỉnh thoáng nét không vui – Nhưng nếu nói về phong lưu thì tướng quân không thể so với tiên sinh được. Tiên sinh đi đâu cũng được mọi người yêu mến, đêm nào cũng có người chúc rượu. Như tướng quân, mấy lần yến tiệc trong triều hay tửu quán, chẳng ai đến chúc rượu tướng quân cả. Chỉnh vỗ ngực: - Ấy là bởi tướng quân nhà nàng khắc kỷ và kiêu bạc quá, ta có cầm chén rượu lên muốn tới chúc tụng cũng chẳng dám lại gần. Người khác yêu quý ta không phải là thực lòng đâu, chẳng qua do ta gia ơn cho họ mà thôi. Nên nếu xét về sự cô độc thì ta và tướng quân nhà nàng chẳng ai hơn ai kém! Bằng Cơ mở tròn đôi mắt trong, chớp mắt: - Vậy tiên sinh dậy thiếp điệu khúc này nhé! Từ giờ, khi nào tiên sinh đến Cổ Nguyệt lâu, thiếp sẽ gẩy cho tiên sinh nghe! Chỉnh hướng dẫn Bằng Cơ chơi “Trương Lưu hầu phú” đến tận khuya. Càng lúc Chỉnh càng mê đắm mỹ nhân. Nhưng các thương gia ở Hàng Đào không phải ai cũng thích thú với Cổ Nguyệt lâu. Cổ Nguyệt lâu thu mua nguồn hàng của họ, khiến họ cứ luôn thiếu hàng. Khách dần dần dổ hết vào Cổ Nguyệt lâu. Cả phường lái buôn hò nhau góp tiền, thuê quân tam phủ đến quậy phá Cổ Nguyệt lâu. Quân tam phủ xông vào, hết xé rách lụa lại ôm ấp chọc ghẹo các đào nương. Các đào nương khóc thút thít. Bằng Cơ sợ hãi, trốn trên lầu chẳng dám xuống, chỉ biết kêu người đi cầu cứu Nguyễn Gia Thiều. Một tên lính còn dám kéo đổ tấm biển “Cổ Nguyệt lâu” rơi xuống, gãy tan tành. - Đô chỉ huy sứ thì là cái đinh gì chớ! Ông mày khinh! Tên trưởng tốp lính nhổ bãi nước bọt vào tấm biển “Cổ Nguyệt lâu”. - Đám Bắc Hà như hắn, chỉ biết ăn trên ngồi trốc, công cán có cái gì đâu mà vênh vang! Như quân tam phủ chúng ta đây, oai danh hiển hách, danh trấn Thanh Nghệ, lại sợ lũ Bắc Hà à? Rồi chúng cởi quần ra, mỗi tên tè một bãi vào tấm biển Cổ Nguyệt lâu. Quân tam phủ nổi tiếng hung dữ. Từ thời Triết Vương Trịnh Tùng, quân tam phủ nhờ có công giúp vương trung hưng nhà Lê, nên hết đời này đến đời khác, vẫn được tin dùng. Quân tam phủ được vương phủ họ Trịnh chống lưng, thích giết là giết, thích phá là phá, chẳng ai dám ngăn cản. - Không sợ lũ Bắc Hà, thì chắc là cũng không biết sợ Tĩnh Đô vương nhỉ? Nguyễn Gia Thiều dẫn đầu một tốp kỵ mã đi tuần, kìm cương ngựa ngay trước cửa Cổ Nguyệt lâu. Đám lính tam phủ nhao nhao vung kiếm xông về phía Thiều. Thiều chẳng thèm ra tay. Hai kỵ mã chăng xích sắt có móc lưỡi dao, cùng phi về phía quân tam phủ. Lính tam phủ sợ hãi, chạy ngược trở lại. Có kẻ cầm kiếm định chém vào chân ngựa, thì lập tức bị cung thủ bên cạnh Thiều bắn tên, găm đúng tay, la oai oái. - Trói hết chúng lại cho ta! Dám giở trò càn rỡ, không coi quốc pháp ra gì nữa sao? Tên trưởng đội tam phủ quát: - Ngươi cứ trói đi! Đại vương sẽ không tha cho ngươi! Thiều nhún vai: - Ồ, chắc ngươi không biết, cái chức đô chỉ huy sứ này, ta vốn đâu có muốn làm… Tên đội trưởng chợt nhớ ra chức danh ấy chính là do Tĩnh Đô vương phong cho Nguyễn Gia Thiều chứ không phải Thiều bỏ tiền bạc ra mua chức mà có. Xưa nay, quân tam phủ đi dọa dẫm, chủ yếu là đám người mua quan bán chức và đám hàn nho muốn danh lợi. Nhưng Thiều vốn là trâm anh thế tộc, lại được Tĩnh Đô vương sủng ái, đâu dễ đụng vào. Dây thừng quăng ra, trói gô cả đám lính tam phủ, giải tới ngục giam giữ và tra hỏi. Thiều xuống ngựa vào Cổ Nguyệt lâu, vẫy Bằng Cơ ra dặn dò: - Nàng cho mời hết các lái thương vải ở Hàng Đào đến cho ta hỏi chuyện! Bằng Cơ vâng dạ, lập tức sai người đi mời các lái thương, không ai dám không đến. Đứng trước mặt Thiều, các lái buôn đều cúi gằm mặt. Chỉ một thương gia vẫn ung dung không sợ hãi. Bằng Cơ sớm nhận ra thương gia ấy chính là người vẫn hay rót rượu mời Chỉnh. Thiều đứng lên chắp tay nói: - Xin chào các vị, ta họ Nguyễn Gia, tên có một chữ Thiều. Ta cùng tiểu thiếp có mở Cổ Nguyệt lâu này, vì mải mê buôn bán mà không nghĩ đến người khác, thật là có lỗi. Ta nhờ có đại vương gia ơn, có nguồn vốn lớn, nên có thể thu mua được lượng vải tốt không nhỏ. Do đặt hàng nhiều, nên giá cả cũng rẻ hơn so với quý vị lấy hàng. Nay coi như ta xin tạ tội, vị nào muốn lấy lụa ở nhà ta trong năm nay để về tiệm bán, ta sẽ chỉ lấy đúng giá gốc, không lấy lãi một xu. Giá lụa bán lẻ ở nhà ta cũng sẽ cao hơn chỗ quý vị một chút, để khách qua đường ít lưu ý nhà ta mà tới mua hàng ở chỗ quý vị. Chẳng hay như vậy, có được không? Các lái thương xì xào bàn tán nhau một hồi, rồi thấy cũng có lợi nên chẳng tội gì mà chê trách Cổ Nguyệt lâu thêm nữa. Một người đứng ra đại diện: - Chúng tôi xin cảm ơn tướng quân! Ân nghĩa của tướng quân thật khiến chúng tôi hổ thẹn! Chúng tôi xin được góp tiền với nhau giúp Cổ Nguyệt lâu bù lại các thiệt hại mà quân tam phủ gây ra! Bằng Cơ nghe đến đó thì bực tức, định lên tiếng nhưng Thiều khoát tay ra hiệu. Ánh mắt của Thiều lướt một lượt qua cả thương nhân trông vẻ chẳng lo lắng cũng chẳng quan tâm gì. Thiều nhân dịp này đi thăm một lượt các phường buôn ở Hàng Đào. Các lái buôn ai cũng niềm nở giới thiệu hàng hóa. Cuối cùng, Thiều dừng ở Phượng Hoàng điếm. Người lái buôn cả buổi vẫn ung dung kia lại cảm thấy không vui.