← Quay lại trang sách

Chương 10

Chuyện xảy ra cách đây ba mươi ba năm rồi. Hồi đó tôi làm việc cho một công ty sản xuất phụ tùng tại tỉnh Aichi. Chưa có nhà riêng, hằng ngày tôi đi làm bằng ô tô từ căn hộ ở gần ga Okazaki thuộc tuyến đường sắt quốc gia. Phải rồi, hồi đó người ta vẫn còn gọi là đường sắt quốc gia chứ không phải JR.

Một hôm trên đường đi làm, tôi va chạm làm bị thương một người đi xe đạp. Người đó chính là Haitani Shozo.

Nói là bị thương nhưng cũng không có gì nghiêm trọng cả. Ngặt nỗi Haitani lại là một kẻ giảo hoạt và thâm độc. Thấy tôi cúi đầu nhận lỗi, hắn được đà lấn tới, đưa ra đủ thứ yêu cầu vô lý. Hắn bắt tôi phải thanh toán phí điều trị thì không nói làm gì, nhưng đó lại là một số tiền trên trời. Đã thế hắn còn bắt tôi phải đưa rước hắn đến văn phòng nữa chứ.

Cuối cùng vào buổi tối hôm đó, giọt nước đã tràn ly. Hắn yêu cầu tôi trả tiền sửa chiếc xe đạp bị hỏng nhưng đó lại là một số tiền không thể chấp nhận nổi. Nhìn con số ấy mà tôi nghĩ thà mua chiếc xe mới còn hơn, máu trong người tôi dồn hết cả lên đầu. Tôi bảo hắn rằng tôi không thể trả được số tiền đó. Thế rồi Haitani nói, đã vậy hắn sẽ phanh phui chuyện tôi gây tai nạn cho công ty tôi biết.

Thực ra tôi đã giấu công ty chuyện mình gây tai nạn. Bởi công ty tôi vốn là công ty con của một tập đoàn sản xuất xe hơi lớn, họ cực kỳ nhạy cảm với những vụ tai nạn giao thông do nhân viên gây ra, chỉ cần gây tai nạn một lần thôi cũng đủ ảnh hưởng đến kết quả đánh giá cho tới tận khi thôi việc.

Không thể chịu nổi việc bị gã đàn ông này đeo bám thêm nữa, tôi đã cầm con dao để trong bếp của văn phòng. Tôi không định giết hắn thật, chỉ định dọa thôi. Nhưng Haitani vẫn không suy chuyển. Hắn cười hềnh hệch, thách tôi có dám thì đâm thử coi. Nhìn bản mặt của hắn, lý trí trong tôi đã bị thổi bay. Lúc nhận ra, tôi thấy Haitani đã ngã xuống đất. Tay tôi vẫn nắm chặt con dao dính đầy máu. Có vẻ như Haitani đã chết.

Tôi nghĩ, vậy là mình đã gây ra chuyện tày đình mất rồi. Tôi tự nhủ trước mắt phải rời khỏi hiện trường càng nhanh càng tốt, sau khi lau sạch dấu vân tay trên con dao, tôi liền ra khỏi phòng. Rồi ngay sau khi leo lên xe của mình, tôi trông thấy cậu thanh niên trẻ tuổi, nhân viên trực điện thoại ở văn phòng của Haitani vừa đi đâu đó về. Tôi bèn xuống xe, làm như thể mình vừa mới đến, rồi cùng cậu thanh niên đó đi lên văn phòng. Bằng cách đó, tôi và cậu ta đã trở thành những người đầu tiên phát hiện ra thi thể.

Dĩ nhiên tôi cũng bị cảnh sát hỏi chuyện. Nhưng có vẻ họ không nắm được bằng chứng gì đến mức coi tôi là kẻ tình nghi. Tôi không bị hạn chế đi lại, cũng không bị cảnh sát gọi lên hết lần này đến lần khác.

Trong khi đó, câu chuyện lại diễn biến theo hướng không ngờ tới. Hung thủ bị bắt giữ. Đó là người đàn ông có tên Fukuma Junji, nghe nói anh ta đang xích mích với Haitani vì chuyện tiền nong.

Thú thực, tôi thấy nhẹ cả người. Tôi những mong mọi chuyện sẽ được giải quyết dứt điểm. Chắc chắn bản thân Fukuma sẽ phủ nhận tội danh, nhưng cũng có khi cảnh sát không tin lời anh ta.

Kết quả là điều tôi mong mỏi đã thành hiện thực. Như các anh đã biết, Fukuma tự tử, sau đó cảnh sát dừng điều tra.

Kể từ hôm đó, tôi sống trong xiềng xích của tội ác tày đình. Ở một góc trong tâm trí, à không, ở ngay chính giữa tâm trí tôi, lúc nào cũng tồn tại cảm giác dằn vặt vì đã cướp đi cuộc sống của một người đàn ông vô tội. Trong tôi tràn ngập cảm giác tội lỗi. Nhưng tôi không đủ dũng khí để tự mình đi đầu thú với cảnh sát. Một phần vì sợ phải vào tù, rồi cứ nghĩ đến vợ và cậu con trai vừa chào đời là tôi lại không dám đứng ra nhận tội. Tôi không muốn vợ con mình trở thành người thân của một kẻ phạm tội.

Phải đến vài năm sau tôi mới nhận ra suy nghĩ đó là một sai lầm tai hại. Hồi ấy, Nhật Bản đang ở vào thời kỳ đỉnh cao của nền kinh tế bong bóng, rất nhiều người kiếm lời từ cổ phiếu hay các giao dịch bất động sản.

Giữa những ngày như thế, tôi có dịp đi công tác ở thành phố Toyokawa. Tôi tình cờ vào một quán ăn, trong lúc đang bàn chuyện đầu tư với đồng nghiệp, bà chủ quán nói với tôi một chuyện không ngờ tới. Đó là chuyện về một cửa hàng đồ điện từng mở ở thị trấn đó.

Chủ cửa hàng đồ điện ấy cách đây vài năm đã bị người ta lừa vào một vụ đầu tư bịp bợm, mất hết tài sản. Không chỉ vậy, sau khi đến khiếu nại với người đứng ra làm trung gian giới thiệu vụ đầu tư, anh ta đã nổi khùng lên, đâm chết gã kia. Đã thế sau khi bị bắt giam, anh ta còn tự tử ngay trong khu tạm giam nữa.

Tôi bèn hỏi bà chủ quán tên cửa hàng đồ điện đó. Nghe bà chủ đáp, nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là cửa hàng đồ điện Fukuma, tôi bỗng run lẩy bẩy. Chắc chắn là anh Fukuma đó rồi.

Thế nhưng, chuyện tôi nghe được sau đó còn sốc hơn. Theo lời bà chủ quán thì vợ Fukuma đã dẫn theo cô con gái nhỏ, âm thầm rời khỏi thị trấn. Bà chủ quán nói, tất nhiên một phụ nữ không có kiến thức chuyên môn thì sao có thể kinh doanh cửa hàng đồ điện được, nhưng cốt yếu vẫn là do sức ép từ dư luận quá lớn. Chỉ vì là người nhà của kẻ sát nhân mà họ bị người ta quấy rối một cách đầy ác ý.

Tôi bỗng hoa mày chóng mặt. Tôi muốn bảo vệ gia đình mình, nhưng đổi lại đã gieo rắc tai ương cho một gia đình khác. Thật không thể tha thứ được.

Dù vậy tôi vẫn chưa thể quyết định một cách dứt khoát. Tôi đã ưu tiên việc bảo vệ bản thân và gia đình hơn. Tôi tự huyễn hoặc chính mình rằng đến nước này rồi có nói ra sự thật cũng không giải quyết được gì.

Thế rồi thời gian lại tiếp tục trôi đi, tháng Năm năm 1999, vụ án hết thời hiệu truy tố. Tôi chẳng thấy vui vẻ gì, vẫn ở đó gặm nhấm cảm giác tội lỗi. Đúng vào khoảng thời gian này, bà nhà tôi mắc phải căn bệnh máu trắng. Vài năm sau, khi bà ấy sang thế giới bên kia, tôi thầm nghĩ đó chính là quả báo. Thay vì trừng phạt tôi thì ông trời lại cướp đi sinh mạng của bà ấy.

Tôi quyết định thuê thám tử. Trước mắt tôi muốn tìm hiểu xem vợ con anh Fukuma hiện giờ đang sống ở đâu, làm gì. Tôi tìm công ty thám tử qua danh bạ điện thoại. Tôi không nhớ tên công ty đó là gì nhưng họ làm việc rất trung thực. Chỉ khoảng một tuần sau khi tôi nhờ, họ đã tìm ra thông tin, trong khi không hề đòi hỏi tôi số tiền trên trời.

Theo báo cáo họ gửi cho tôi, vợ con anh Fukuma đang dùng họ cũ của người vợ là Asaba. Trong bản báo cáo có viết mẹ con họ đã mở một quán ăn nhỏ ở Monzen-Nakacho, Tokyo, cô con gái sau khi tốt nghiệp cấp ba cũng đến quán phụ giúp mẹ. Bức ảnh thám tử chụp lén ghi lại hình ảnh lúc hai mẹ con họ ra khỏi nhà. Mặc dù tuổi tác chênh lệch nhưng nét mặt và thần thái của họ giống nhau như hai chị em.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Bởi trước đó tôi cứ lo ngay ngáy, ngộ nhỡ hai mẹ con họ phải lang thang đầu đường xó chợ thì biết làm sao. Dĩ nhiên, để có được cuộc sống như hiện tại, chắc chắn mẹ con bà Asaba đã phải trải qua những cực nhọc mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi.

Hay là thử đến một lần xem tình hình của họ ra sao. Mà không, đến lúc này rồi mình có đến cũng chẳng nghĩa lý gì. Cho dù mình có thú nhận sự thật rồi xin lỗi cũng chỉ khiến họ thấy khó chịu, vì đằng nào chẳng hết thời hiệu truy tố rồi. Họ sẽ chỉ chửi rủa mình là kẻ tự mãn mà thôi…

Sau rất nhiều đắn đo, một lần nữa tôi lại không có bất kỳ hành động nào cả.

Thế rồi, lại thêm mười năm nữa trôi qua, bản thân tôi cũng đến ngày về hưu. Lúc ngồi suy nghĩ xem nhân dịp này mình phải làm gì nhỉ, điều tôi nghĩ đến trước tiên chính là chuyện về ông Fukuma, à không, là chuyện về mẹ con bà Asaba. Tôi muốn chính mắt mình xác nhận xem hai người họ đang sống như thế nào.

Con trai tôi lên Tokyo học đại học rồi cứ thế ở lại đó làm việc luôn. Tôi viện cớ lên Tokyo thăm con, rồi một mình đến Monzen-Nakacho dưới danh nghĩa là đi thăm thú Tokyo.

Tôi đã lo lắng không biết quán ăn đó còn trụ được hay không nhưng Asunaro vẫn làm ăn thuận lợi. Trước khi bước vào quán, tôi tự dặn lòng dù có chạm trán với hai mẹ con họ cũng nhất quyết không được dao động, không được buột miệng nói ra điều gì kỳ cục.

Bên trong quán có hai người phụ nữ. Mặc dù dấu thời gian đã in hằn trên nét mặt, song tôi dám chắc đó chính là mẹ con bà Asaba trong bức ảnh mà công ty thám tử gửi kèm theo bản báo cáo. Tôi phải chật vật lắm mới kìm nén được thứ gì đó đang trào dâng trong lòng mình. Nó vừa giống cảm giác vui mừng vì cuối cùng cũng gặp được những người mà mình mong gặp suốt một thời gian dài, vừa giống nỗi ăn năn khôn tả, lại vừa giống cảm giác biết ơn trời đất vì đã che chở cho họ bình an vô sự cho đến tận ngày hôm nay.

Cả bà Asaba lẫn cô Orie đều tỏ ra cực kỳ niềm nở, chắc chắn họ không nhận ra thân phận thật sự của tôi. Những món ăn họ đem ra món nào cũng rất ngon, họ có thể duy trì quán ăn này suốt mười mấy năm cũng là điều dễ hiểu. Trên thực tế, ngày hôm đó khách khứa ra vào nườm nượp khiến hai mẹ con họ vô cùng tất bật.

Lúc ra về, cô Orie tiễn tôi, nghe cô nói mời anh lần sau lại ghé quán ạ, thế là tôi cũng lỡ miệng đáp tôi sẽ quay lại vào ngày gần nhất. Thật vô tâm làm sao khi ngày hôm đó tôi lại hoàn toàn vui vẻ.

Thế rồi, chưa đầy hai tháng sau, tôi thật sự đã quay trở lại quán Asunaro. Cả hai mẹ con đều nhớ ra tôi, họ tươi cười đón tiếp tôi. Trong tôi, cảm giác cắn rứt lương tâm chưa hề biến mất, nhưng niềm vui mà tôi có cũng là sự thật.

Cứ như vậy, sau nhiều lần ghé chân, tôi đã thật sự trở thành khách quen của quán. Cách hai, ba tháng mới ló mặt đến một lần mà đã đòi làm khách ruột kể cũng hơi trơ trẽn, nhưng chắc vì thấy tôi lặn lội đường xa tới nên hai mẹ con bà Asaba cũng đối xử đặc biệt với tôi.

Tôi hối tiếc, giá như mình chỉ giữ mối quan hệ đến mức đấy thôi thì tốt biết mấy.

Có vẻ hai mẹ con họ đã có được niềm hạnh phúc cho riêng mình. Nếu vậy, nhẽ ra tôi cũng không nên làm điều gì thừa thãi mà hãy cứ âm thầm dõi theo họ thì có phải hơn không.

Nhưng càng thân thiết với họ tôi càng tự hỏi liệu mình có thể làm gì cho họ, tôi có thể làm gì để chuộc tội với họ đây.

Đúng vào quãng thời gian đó, tôi tình cờ gặp ông Shiraishi Kensuke.

Tôi nhớ là vào cuối tháng Ba năm nay thì phải. Hôm đó tôi đến sân vận động Tokyo Dome. Con trai tôi biếu tôi vé xem trận đấu bóng chày giữa đội Giants và Chunichi. Lại còn là một chỗ ngồi tương đối lý tưởng vì gần gôn.

Trận đấu vừa bắt đầu thì xảy ra một sự cố nho nhỏ. Người đàn ông ngồi cạnh tôi định đưa tờ 1.000 yên cho cậu bé bán bia, nhưng chẳng may làm rớt tờ tiền. Xui xẻo là tờ tiền đó lại bay vào cốc giấy đựng bia tôi vừa mua trước đó. Người đàn ông đã xin lỗi tôi rất chân thành, còn mua đền tôi một cốc bia mới.

Nhờ thế mà chúng tôi có duyên trò chuyện với nhau. Ông ta cũng đi một mình.

Chúng tôi vừa xem trận đấu, vừa tám chuyện về bóng chày rất vui vẻ. Hỏi ra mới biết người đàn ông đó cũng là fan của đội Chunichi. Tôi cứ đinh ninh ông ta xuất thân từ tỉnh Aichi, nhưng ông ta lại bảo mình sinh ra và lớn lên ở Tokyo. Vốn dĩ ông ta thuộc phe tẩy chay đội Giants, nên sau khi đội Chunichi cản trở chiến thắng lần thứ mười liên tiếp của đội Giants, ông ta đã trở thành fan của đội Chunichi.

Trận đấu kết thúc trước chín giờ tối. Thật may cho tôi. Bởi nếu không lên chuyến tàu shinkansen lúc mười giờ, tôi sẽ không kịp về nhà.

Ngặt nỗi lúc đứng dậy khỏi ghế, tôi mới phát hiện ra một chuyện xúi quẩy. Chiếc ví rõ ràng nhét trong túi quần, giờ lại không thấy đâu. Tôi tá hỏa. Giữa trận đấu tôi chỉ đi vệ sinh một lần, tôi nhớ mình đã dùng buồng vệ sinh riêng. Chắc chắn lúc đó tôi đã đánh rơi ví.

Tôi cuống cuồng chạy thẳng tới nhà vệ sinh. Ông Shiraishi cũng đi theo tôi. Nhưng tôi không tìm thấy ví trong nhà vệ sinh. Thế là tôi thử đến quầy thông tin, nhưng cũng không có ai gửi ví của tôi ở đó. Tôi không biết phải làm như thế nào. Sắp sửa đến giờ tàu khởi hành vậy mà đến một tấm vé tôi cũng không mua nổi. Đen đủi thế nào mà đúng hôm đó con trai tôi lại đi công tác, không ở Tokyo.

Lúc ấy, ông Shiraishi đã rút 20.000 yên trong ví ra, bảo tôi cứ cầm lấy mà dùng. Tôi ngạc nhiên lắm. Vì chúng tôi mới gặp nhau lần đầu, chỉ mải mê tám chuyện về bóng chày, còn chưa cả tự giới thiệu về bản thân nữa. Ông Shiraishi lấy danh thiếp ra, bảo tôi cứ trả lại tiền mặt bằng thư bảo đảm là được. Đọc tấm danh thiếp đó tôi mới biết hóa ra ông ấy là luật sư.

Chẳng có thì giờ mà từ chối, tôi đành nhận lấy số tiền đó, cảm ơn qua quýt rồi rời khỏi sân vận động. Ngồi trong taxi để ra ga Tokyo, tôi thầm nghĩ hóa ra trên đời này vẫn còn những người thật tử tế.

Về đến Anjo, ngay ngày hôm sau tôi ra bưu điện gửi tiền trả cho ông Shiraishi kèm theo bức thư cảm ơn. Khoảng ba ngày sau, tôi nhận được thư từ ông ấy. Trong thư ông Shiraishi thông báo tiền đã đến nơi nguyên vẹn và bảo tôi nếu có vướng mắc gì liên quan đến pháp luật thì đừng ngại liên lạc với ông ấy, ông ấy sẽ tư vấn cho.

Bẵng đi một thời gian, tôi cũng quên luôn sự tồn tại của ông Shiraishi. Phải đến mùa thu tôi mới nhớ đến người đàn ông ấy. Hôm đó trong lúc xem chương trình liên quan đến Ngày kính lão trên TV, tôi thấy họ phát một phóng sự đặc biệt về việc thừa kế tài sản và di chúc. Xem xong, trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ. Phải chăng đây là cách tốt nhất để tôi tạ tội với mẹ con bà Asaba. Tức là sau khi chết, tôi sẽ để lại toàn bộ tài sản cho hai mẹ con bà ấy.

Vấn đề là tôi có được phép làm như vậy hay không. Nếu được thì tôi phải hoàn tất những thủ tục nào. Tôi hoàn toàn mù tịt.

Và khi đó tôi đã nhớ ra ông Shiraishi. Tôi nảy ra nghĩ hay là thử trao đổi với ông ta xem sao. Tôi gọi điện cho ông ta vào ngày mùng 2 tháng Mười. Nghe tôi nói có việc muốn xin tư vấn, ngỏ ý muốn phiền ông ta dành chút thời gian gặp mình, ông ta đã vui vẻ nhận lời ngay lập tức.

Đúng như những gì các anh điều tra được, tôi gặp ông Shiraishi vào ngày mùng 6. Chính ông ấy là người đề nghị gặp nhau ở quán cà phê gần ga Tokyo. Lâu rồi mới gặp, tôi cảm ơn ông ta về hôm đánh rơi ví một lần nữa, sau đó đi thẳng vào vấn đề chính.

Tôi hỏi ông ta, liệu tôi có thể nhượng lại tài sản cho những người không có quan hệ máu mủ với mình không? Câu trả lời của ông Shiraishi là có. Chỉ cần để lại một bức di chúc có hiệu lực về mặt pháp lý là tôi có thể hoàn thành tâm nguyện. Tuy nhiên, việc tôi có thể nhượng lại toàn bộ tài sản của mình hay không còn phụ thuộc vào mong muốn của người thừa kế hợp pháp. Người thừa kế hợp pháp của tôi chính là Kazuma, con trai tôi. Cho dù tôi có để lại một bản di chúc hợp pháp, con trai tôi vẫn có quyền thừa kế nhiều nhất là một nửa số tài sản. Vì vậy, nếu thuyết phục được con trai, tôi có thể để lại toàn bộ hoặc gần như toàn bộ tài sản cho mẹ con bà Asaba.

Sau khi giải thích cho tôi như vậy, ông Shiraishi hỏi đối tượng mà tôi định để lại tài sản có biết ý định đó của tôi hay không. Khi tôi trả lời là họ không biết, ông Shiraishi bèn khuyên tôi rằng nếu vậy tôi nên viết rõ lý do trong bản di chúc của mình. Nếu đó là một lý do thuyết phục thì khả năng con trai tôi chịu từ bỏ phần tài sản thừa kế của mình sẽ cao hơn.

Dù mới chỉ gặp nhau một lần, ông Shiraishi vẫn tỏ ra rất tử tế. Chắc chắn ông ta cũng tò mò lý do tại sao tôi muốn để lại tài sản cho người dưng nước lã, nhưng ông ta không hỏi. Thế rồi, kỳ lạ thay, tôi bỗng muốn kể cho ông ta nghe toàn bộ sự thật. Một phần cũng vì tôi cho rằng làm như vậy sẽ giúp ông ta dễ dàng hơn trong việc chỉ dẫn tôi viết di chúc. Nhưng trên tất cả, có lẽ là bởi tôi khao khát có ai đó sẽ hiểu cho tâm trạng lúc bấy giờ của mình. Rồi còn cả chuyện xảy ra ở sân vận động Tokyo Dome nữa, ông Shiraishi rõ ràng là một người đáng tin cậy.

Sau khi rào trước rằng mình có chuyện muốn giải bày, tôi đã kể cho ông Shiraishi nghe đầu đuôi câu chuyện. Quả nhiên ông Shiraishi rất kinh ngạc. Tôi nhận ra nét mặt ông ta đã trở nên cứng nhắc.

Ông Shiraishi nói đã nắm rõ sự tình và cũng hiểu mong muốn nhượng lại tài sản cho mẹ con bà Asaba của tôi. Ông ấy còn nói sẵn lòng giúp đỡ tôi.

“Có điều, tôi không thể tán thành với cách làm đó,” đấy là quan điểm của ông Shiraishi. Ông ta nói nếu thật sự muốn tạ lỗi chẳng phải tôi nên làm ngay khi mình còn sống thay vì đợi sau khi chết ư.

Vì không lường trước được việc sẽ bị nói như thế nên tôi rất bối rối. Lời ông Shiraishi nói rất đúng đắn, nhưng chính vì không làm được nên tôi mới nghĩ ra cách nhượng lại tài sản. Ngặt nỗi ông Shiraishi không chịu hiểu. Ông ta nói làm như vậy đâu gọi là chuộc lỗi, rằng tôi chỉ đang chạy trốn. Không biết có phải do kích động hay không mà trong lúc nói chuyện, khẩu khí ông ta trở nên khá gay gắt.

Tôi hối hận vì đã nhờ ông Shiraishi tư vấn cũng như bộc bạch với ông ta bí mật của mình. Tôi bèn đứng dậy, bảo ông ta hãy coi như chưa từng nghe chuyện này.

Ngay cả khi đã về đến nhà ở Anjo, tôi vẫn đứng ngồi không yên. Tôi cứ thấp thỏm lo sợ ông Shiraishi sẽ làm gì đó. Bởi tôi đã lỡ kể cho ông ta nghe chuyện về quán Asunaro.

Không lâu sau tôi nhận được một bức thư của ông Shiraishi. Trong thư ông ta viết tràng giang đại hải về việc bằng mọi giá tôi phải đến xin lỗi mẹ con bà Asaba. Ông ta còn viết thêm rằng sẽ giúp tôi làm điều đó, và nếu tôi muốn ông ta có thể đi cùng.

Đó là một bức thư đầy tâm huyết, tràn ngập ý thức về sứ mệnh và lòng chính nghĩa. Thế nhưng, sự nhiệt huyết đó đối với tôi thật đáng sợ. Tôi bắt đầu có ý nghĩ, nếu cứ để mặc mọi chuyện như thế này, không chừng ông Shiraishi sẽ tiết lộ toàn bộ sự thật cho mẹ con bà Asaba mất. Nỗi khiếp sợ đó cứ lớn dần lên từng ngày.

Thấy tôi không hồi đáp, vài ngày sau ông Shiraishi lại gửi bức thư thứ hai. Nội dung vẫn giống bức thư đầu tiên, nhưng những lời lẽ trách móc thì đã nhiều hơn. Thậm chí ông ta còn viết, tội ác của tôi sẽ không mất đi như thời hiệu truy tố đối với tội giết người nay đã không còn đâu, mặc dù công việc của luật sư là bảo vệ quyền lợi của các bị cáo nhưng ông ta không thể tiếp tay cho việc lấp liếm tội lỗi, nếu phải làm vậy chi bằng ông ta chọn con đường đưa tội ác của tôi ra ngoài ánh sáng còn hơn.

Tôi cuống cả lên. Tôi nghĩ nó chắc chắn là một bức tối hậu thư. Nếu tôi tiếp tục im lặng, ông Shiraishi sẽ kể hết chân tướng sự việc cho mẹ con bà Asaba.

Tôi tự nhủ bằng mọi giá phải ngăn ông ta lại. Bởi giờ đây, khoảng thời gian được ở cùng mẹ con họ đã trở thành lẽ sống của tôi. Sau khi chết đi, tôi sẽ cho họ biết sự thật… Tôi biết đó là suy nghĩ của một kẻ đang “chạy trốn” đúng như Shiraishi nói. Nhưng tôi không muốn đánh mất báu vật duy nhất của mình.

Ngày 31 tháng Mười, sau khi đưa ra một quyết định trọng đại, tôi lên chuyến tàu shinkansen hướng đi Tokyo. Ngồi trên tàu, tôi nhẩm đi nhẩm lại những việc mình cần làm, kiểm tra xem liệu có sai sót ở đâu không. Đúng vậy. Vào thời điểm đó tôi đã nghĩ chỉ còn cách để ông Shiraishi chết đi. Tôi giấu con dao trong túi ngực.

Tôi đặt chân đến ga Tokyo vào khoảng năm giờ chiều. Sau đó, tôi gọi vào số di động của ông Shiraishi. Khi ông ta bắt máy, tôi nói mình đang ở Tokyo và hỏi xem ông ta có thể gặp tôi không. Ông Shiraishi nói vẫn còn một vài việc cần giải quyết, sau 6 giờ 30 thì được, vì thế chúng tôi quyết định gặp nhau ở Monzen-Nakacho vào khoảng 6 giờ 40 phút. Hình như ông Shiraishi đã đến đó vài lần bằng ô tô và những lần ấy, ông ta đều sử dụng bãi đỗ xe tự động ngay cạnh đền Tomioka Hachimangu, vì thế tôi dặn ông ta đỗ xe ở đó, chờ tôi.

Trong lúc chờ đến giờ hẹn, tôi đi loanh quanh khu Monzen-Nakacho. Tôi muốn tìm một chỗ không có ai qua lại. Vì lúc đó rơi vào khoảng 6 giờ chiều nên thị trấn rất nhộn nhịp. Tôi đi bộ về phía sông Sumida. Từ khu vực dưới cầu vượt của đường cao tốc trở đi là người qua lại ít hơn hẳn.

Thế rồi, trong lúc đi bộ, tôi phát hiện ra một công trường ven sông Sumida. Chỗ đậu xe của bên thi công đang trống không. Tiện hơn nữa là con đường dạo bộ ven sông có tên Sumidagawa Terrace – vốn nằm ngay chân cầu thang bộ, bên hông cây cầu Kiyosu gần đó đang cấm đường để thi công. Chắc vì thế mà ở đây không có lấy một bóng người.

Tôi quyết định chọn chỗ đó.

Hơn 6 giờ 40 một chút, tôi gọi điện lại cho ông Shiraishi. Ông ta bảo đã có mặt ở bãi đậu xe tự động gần đền Tomioka Hachimangu. Tôi nói với ông ta mình bị lạc đường trong lúc đi dạo và nhờ ông ta hãy đến gần cầu Kiyosu.

Chỉ lát sau ông Shiraishi đã đánh xe tới. Nhận ra tôi đang đứng ở công trường xây dựng, ông ta liền cho xe đậu gần đó rồi bước xuống.

Sau khi bảo ông ta rằng mình có chút chuyện muốn nói, tôi đi thang bộ xuống con đường dạo bộ Sumidagawa Terrace. Ông Shiraishi theo sau tôi, song đúng là ông ta cũng tỏ vẻ nghi ngờ. Ông ta hỏi như thể đang trách móc tôi, “Ông đang làm gì ở đây? Không phải chúng ta sẽ tới chỗ mẹ con bà Asaba à?” Giọng điệu gai góc ấy đã thôi thúc tôi đưa ra quyết định dứt khoát.

Tôi lướt nhìn xung quanh. Quả nhiên ở đây không có ai. Nghĩ cơ hội đã tới, tôi liền cầm con dao lén mang theo đâm vào bụng ông Shiraishi.

Ông Shiraishi có kháng cự một chút, nhưng rồi ông ta lập tức bất động. Tôi phân vân không biết nên xử lý cái xác như thế nào, bèn quyết định vác nó lên ô tô. Bởi tôi nghĩ nên để người ta tìm thấy thi thể ông Shiraishi ở một chỗ nào đấy càng ít liên quan đến Monzen-Nakacho thì càng tốt.

Sau khi đặt xác lên băng ghế sau, tôi quyết định ngồi vào ghế lái, cho xe chạy. Nói vậy chứ, không thông thuộc địa hình nên tôi hoàn toàn không biết phải vứt cái xe ở đâu. Rốt cuộc sau khi chạy khoảng hai mươi phút, tôi cho xe dừng trên đường, chỉ lấy mỗi chiếc điện thoại di động rồi tháo chạy. Về sau tôi mới biết đó là khu Kaigan, Minato.

Tôi nghĩ mọi chuyện đã diễn ra suôn sẻ, từ giờ tôi lại có thể gặp mẹ con bà Asaba như trước, nhưng đồng thời một nỗi buồn đau vô hạn xâm chiếm lòng tôi.

Tôi lại giết chết một người nữa rồi. Đã vậy đó còn là một người vô tội.

Ngẫm lại tôi mới thấy đời mình chỉ toàn những chuyện đáng ân hận. Tôi vẫn chẳng khác gì tôi của hơn ba mươi năm trước. Tôi căm ghét chính mình.

Tôi đã làm những chuyện thực sự có lỗi với ông Shiraishi và cả mẹ con bà Asaba. Mà không, sang thế giới bên kia, tôi còn phải xin lỗi cả ông Haitani và anh Fukuma nữa.

Tôi có bị tử hình cũng đáng lắm.