← Quay lại trang sách

Chương 20 ĐẠI LỘ KING SAUL, TEL AVIV

“HẮN TỰ XƯNG là David Girard. Nhưng giống như hầu hết mọi thứ về hắn, đó chẳng qua là một lời nói dối.”

Gabriel đặt tập hồ sơ lên chiếc bàn làm việc to đùng đến lố bịch của Uzi Navot. Nó có kính mờ màu khói và đặt gần cửa sổ chống đạn cao từ sàn đến trần, nhìn ra trung tâm thành phố Tel Aviv và biển cả mênh mông. Ánh mặt trời mờ nhạt chiếu xiên qua tấm rèm lá đứng, giam Navot giữa các vệt sáng tối. ông không chạm vào hồ sơ và vẫy tay mời Gabriel tiếp tục câu chuyện.

“Tên thật của hắn là Daoud Ghandour. Hắn sinh ra ở làng Tayr Dibba ở miền Nam Lebanon, trong cùng thị trấn với Imad Mughniyah, nghĩa là cả hai có thể biết nhau từ thời niên thiếu.”

“Làm thế nào mà hắn có thể ngoi lên từ cái nơi mạt hạng như Tayr Dibba và đặt chân vào phòng triển lãm cổ vật ở thị trấn St. Moritz kia chứ?”

“Bằng cách của người Lebanon,” Gabriel trả lời. “Năm 1970, khi Arafat và Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) bắt đầu hoạt động ở miền Nam Lebanon, gia đình Ghandour đã chuyển đến Beirut. Rõ ràng, Daoud là một đứa trẻ cực kỳ sáng dạ. Hắn theo học một ngôi trường tốt, học nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Đến lúc vào đại học, hắn chuyển đến Paris và theo ngành lịch sử cổ đại tại Đại học Sorbonne.”

“Có phải đó là khi Daoud Ghandour trở thành David Girard?”

“Vẫn chưa, chuyện đó chỉ xảy ra khi hắn chuyển sang Oxford,” Gabriel đáp. “Sau khi lấy bằng tiến sĩ khảo cổ học cổ điển, hắn đến làm việc tại bộ phận cổ vật của Nhà đấu giá Sotheby’s ở London. Hắn ở đó vào cuối những năm chín mươi khi Sotheby’s bị buộc tội buôn bán cổ vật không rõ nguồn gốc. Hắn rời London mang theo nhiều nghi vấn.”

“Và bắt đầu đích thân bước vào nghề này?”

Gabriel gật đầu.

“Mở một phòng triển lãm ở St. Moritz thì tốn bao nhiêu tiền?”

“Rất nhiều.”

“Hắn lấy tiền từ đâu?”

“Câu hỏi hay đấy.”

Gabriel rút ra một bức ảnh từ tệp hồ sơ và đẩy nó qua mặt bàn. Trong hình là một người đàn ông mảnh khảnh, gần năm mươi tuổi, đang tựa vào một hộp kính trưng bày chứa đầy đồ gốm Hy Lạp và Etruscan. Hắn mặc áo thun đen cùng áo khoác cũng màu đen. Ánh mắt hắn ôn hòa và đầy tư lự. Nụ cười hắn nặn ra chụp hình cũng có vẻ chân thật.

“Tên ác quỷ bảnh bao,” Navot nói. “Ở đâu anh có được bức ảnh này vậy?”

“Từ trang web của phòng triển lãm. Lý lịch chính thức của hắn có một vài lỗ hổng rõ ràng, chẳng hạn như tên khai sinh và quê quán.”

“Hắn mang hộ chiếu quốc tịch gì những ngày này?”

“Thụy Sĩ. Hắn cũng lấy vợ người Thụy Sĩ.”

“Nói tiếng gì?”

“Tiếng Đức.”

“Quả là chủ nghĩa quốc tế.” Navot cau mày nhìn vào bức ảnh. “Chúng ta biết gì về thói quen du lịch của hắn?”

“Giống như hầu hết mọi người trong ngành kinh doanh cổ vật, hắn dành rất nhiều thời gian trên máy bay và trong phòng khách sạn.”

“Lebanon thì sao?”

“Hắn tạt về Beirut ít nhất hai lần mỗi tháng.” Gabriel dừng lời, sau đó nói thêm, “Hắn cũng dành nhiều thời gian ở đây, tại Israel.”

Navot ngẩng phắt lên nhìn nhưng không nói gì.

“Theo bạn bè của Eli tại cơ quan cổ vật Israel, Daoud Ghandour, hay còn gọi là David Girard, thường xuyên viếng thăm Núi Đền. Trên thực tế,” Gabriel đính chính, “hắn dành phần lớn thời gian của mình dưới Núi Đền.”

“Để làm gì?”

“Hắn là một cố vấn không lương cho chính quyền Palestine và Waqf về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khảo cổ. À, điều đó cũng không được nêu trong lý lịch chính thức của hắn.”

Navot nhìn chằm chằm vào bức ảnh một lúc. “Suy luận của anh là gì?”

“Tôi nghĩ hắn là người phe Hezbollah trong mạng lưới của Carlo. Hắn bán hàng ăn cắp qua phòng triển lãm của mình ở thị trấn St. Moritz, chuyển lợi nhuận về nhà thông qua LBB, và trích mười phần trăm cho bố già Carlo Marchese của mình.”

“Anh có thể chứng minh điều đó không?”

“Chưa thể. Đó là lý do tại sao tôi đề nghị chúng ta bắt mối làm ăn với hắn.”

“Bằng cách nào?”

“Tôi sẽ nhử hắn bằng một thứ không thể cưỡng lại, và xem liệu hắn có cắn câu không.”

“Có lẽ tôi không nên hỏi,” Navot thở dài, “nhưng anh định đào đâu ra thứ không thể cưỡng lại đó?”

“Tôi sẽ ăn trộm nó, tất nhiên.”

“Tất nhiên là thế,” Navot nói, mỉm cười. “Thế anh có cần tôi giúp gì không?”

“Tiền, Uzi. Rất nhiều tiền.”

Quy định của Văn phòng yêu cầu các đặc vụ thực địa trước ngày khởi hành làm nhiệm vụ ở nước ngoài phải trải qua đêm cuối ở Israel, tại một nhà an toàn được gọi là địa điểm cất cánh, ở đó, cách xa những cái gây xao nhãng như vợ chồng, người yêu, con cái và thú cưng, họ sẽ khoác vào danh tính giả như tấm áo giáp hộ thân cho đến khi trở về nhà. Chỉ có Gabriel và Eli Lavon quyết định không tham gia vào nghi thức lâu đời này, vì theo tính toán của họ, họ đã dành nhiều thời gian sống dưới những cái tên giả hơn là tên thật của chính mình.

Hóa ra, cả hai đều chọn giết thời gian của buổi tối cuối cùng bằng cách bầu bạn cùng những người phụ nữ bị hủy hoại. Lavon quay về Đường hầm phía Tây để dành vài giờ với Rivka yêu quý của ông, trong khi Gabriel hành hương đến Bệnh viện Tâm thần Núi Herzl để thăm Leah. Như thường lệ, ông đến sau giờ thăm bệnh. Bác sĩ của Leah đang chờ ở sảnh. Có diện mạo trông như giáo sĩ Do Thái với mũ chỏm kippah và bộ râu xám dài, ông là người duy nhất ở Israel không có dây mơ rễ má với Văn phòng mà lại biết đích xác những gì đã xảy ra đêm đó ở Vienna.

“Cũng lâu rồi anh chưa ghé thăm.” Vị bác sĩ nở một nụ cười khoan dung. “Cô ấy đang mong được gặp anh đấy.”

“Cô ấy thế nào rồi?”

“Cũng vậy thôi. Ở giai đoạn này của cuộc đời Leah, đó là điều tốt nhất chúng ta có thể cầu mong cho cô ấy.”

Bác sĩ nắm lấy cánh tay Gabriel và dắt ông đi qua một hành lang đá vôi Jerusalem đến phòng sinh hoạt chung với khung cửa sổ nhìn ra khu vườn của bệnh viện, chính ở đó, dưới bóng mát của cây thông đá, Gabriel đã xin phép Leah để kết hôn với Chiara. Khoảnh khắc ấy chỉ in sâu một phần trong ký ức nhạt nhòa của Leah. Có đôi khi, bà dường như nhận ra rằng Gabriel không còn là chồng mình, nhưng phần lớn thời gian bà vẫn là một tù nhân bị giam cầm trong quá khứ. Trong tâm trí mơ hồ của Leah, sự vắng mặt dài ngày của Gabriel chẳng có gì bất thường cả. Nhờ Shamron, ông đã luôn luôn bước vào và rời xa thế giới của bà mà không hề hoặc rất ít khi báo trước.

Bà đang ngồi trên xe lăn, phần bàn tay dúm dó còn lại đặt trong lòng. Mái tóc của bà, đã từng dài và đen óng như tóc Chiara, giờ đây được cắt ngắn theo quy định của bệnh viện và đã lốm đốm bạc. Gabriel hôn lên vết sẹo thô ráp, lành lạnh trên gò má của bà trước khi ngồi vào chiếc ghế không tay vịn mà bác sĩ đã đặt bên cạnh bà. Leah dường như không biết đến sự hiện diện của ông. Bà nhìn chằm chặp, ánh mắt vô hồn, ra khu vườn sẫm tối.

“Anh có yêu cô gái này không?” bà đột nhiên hỏi, ánh mắt vẫn nhìn thẳng phía trước.

“Cô gái nào cơ?” Gabriel hỏi lại. Và sau đó, khi ông nhận ra Leah đang hồi tưởng lại cuộc nói chuyện đã kết thúc cuộc hôn nhân của họ, tim ông chợt se sắt. “Anh yêu em,” ông thốt lên nhẹ nhàng, siết lấy bàn tay lạnh giá của bà. “Anh sẽ luôn yêu em, Leah à.”

Một nụ cười chợt bừng nở trên môi bà. Sau đó, bà nhìn thẳng vào Gabriel trong một lúc với ánh mắt phản đối của người vợ. “Anh lại đang làm việc cho Shamron rồi,” bà nói.

“Làm sao em biết được?”

“Em có thể đọc được từ mắt anh. Anh là người khác.” “Anh là Gabriel,” ông bảo.

“Chỉ một phần trong anh là Gabriel.” Bà quay mặt về hướng cửa sổ.

“Đừng đi vội, Leah.”

Bà quay lại nhìn ông. “Lần này anh phải chiến đấu với kẻ nào? Tháng chín Đen à?”

“Không còn tổ chức Tháng chín Đen nữa.”

“Vậy giờ đến kẻ nào?”

“Hezbollah,” ông đáp sau một hồi do dự. “Đó là Hezbollah, Leah à.”

Cái tên có vẻ vô nghĩa với bà. “Hãy kể em nghe về nó,” bà nói.

“Anh không thể.”

“Tại sao không?”

“Bởi vì đó là bí mật.”

“Giống như trước đây?”

“Đúng, Leah, như trước đây vậy.”

Leah cau mày. Bà ghét bí mật. Các bí mật đã phá hủy cuộc sống của bà.

“Lần này anh sẽ đi đâu?”

“Paris,” Gabriel trả lời đúng sự thật.

Mặt bà tối sầm. “Tại sao lại là Paris?”

“Có một người ở đó có thể giúp anh.”

“Một gián điệp?”

“Một tên trộm.”

“Hắn trộm cái gì?”

“Tranh.”

Leah có vẻ thực sự lo ngại. “Tại sao một người như anh lại muốn làm việc với kẻ trộm cắp tranh kia chứ?”

“Đôi khi ta cần làm việc với những kẻ xấu để thực hiện những điều tốt đẹp.”

“Gã này xấu không?”

“Không hẳn.”

“Hãy kể em biết về hắn ta.”

Gabriel thấy việc đó chẳng hại gì, vì vậy ông làm theo yêu cầu của bà. Nhưng sau một lúc, bà dường như mất hứng, và một lần nữa bà lại quay mặt về phía cửa sổ.

“Nhìn tuyết kìa anh,” bà nói, mắt đăm đắm nhìn lên bầu trời đêm không mây. “Chẳng phải đẹp lắm sao anh?”

“Ừ, Leah, nó đẹp lắm.”

Bàn tay bà bắt đầu run rẩy. Gabriel nhắm mắt lại.

Khi Gabriel trở lại Phố Narkiss, ông thấy Chiara nằm duỗi dài trên sofa dưới ánh đèn chập chờn, một ly vang đỏ đặt thăng bằng trên bụng nàng. Nàng đưa ông ly rượu và nhìn ông dò xét khi ông uống, như thể tìm kiếm bằng chứng về sự phản bội. Sau đó, nàng dắt ông vào phòng ngủ và im lặng trút bỏ quần áo của mình, cơ thể nàng ấm nóng như đang sốt. Nàng yêu ông như thể đó là lần cuối cùng.

“Hãy đưa em đến Paris cùng anh.”

“Không được.”

Nàng không ép ông, nàng biết điều đó chẳng ích gì. Không thể sau những gì đã xảy ra ở Rome. Và không thể sau những gì đã xảy ra ở Vienna trước đó.

“Lần này chị ấy có nhớ ra anh không?”

“Cô ấy nhớ.”

“Là anh của thời kỳ nào?”

“Cả hai,” ông đáp.

Chiara im lặng một lúc. Sau đó, nàng hỏi, “Chị ấy có biết anh yêu em không, Gabriel?”

“Cô ấy biết.”

Lại một khoảng lặng. “Anh có không?” nàng hỏi.

“Có gì?”

“Yêu em.”

“Chiara..:’

Nàng xoay lưng lại với ông. “Em xin lỗi,” nàng nói sau một lúc.

“Về chuyện gì?”

“Chuyện em bé. Nếu em không bị sảy thai, anh sẽ không đi đến Paris mà không có em.”

Gabriel không trả lời. Chiara từ từ trườn lên người ông.

“Anh có yêu em không?” nàng hỏi một lần nữa.

“Hơn bất cứ điều gì.”

“Chứng minh cho em thấy đi.”

“Bằng cách nào?”

Nàng khẽ hôn lên môi ông và thì thầm, “cho em thấy đi anh, Gabriel.”