Chương 22 BẾN CẢNG CELESTINS, PARIS
CÓ MỘT CHAI Armagnac trong tủ buffet. Sau khi nghe đề nghị của Gabriel, Maurice Durand tự rót cho mình một ly thật đầy. Gã do dự trước khi uống.
“Đừng lo, Maurice,” Gabriel cất giọng trấn an. “Chúng tôi chừa rượu độc cho những dịp đặc biệt.”
Durand nhấp một ngụm đầy cảnh giác. “Có một điều tôi không hiểu,” gã nói sau một lúc. “Tại sao ông không tự đánh cắp vật đó hoặc mượn tạm từ một trong những viện bảo tàng của các ông?”
“Bởi vì tôi sẽ kể một câu chuyện,” Gabriel trả lời. “Và cũng giống như mọi câu chuyện hay, nó đòi hỏi tính chân thật. Nếu một món cổ vật có giá trị lớn bất ngờ xuất hiện như thể từ trên trời rơi xuống, mục tiêu của chúng tôi sẽ nghi ngờ đây là một cái bẫy. Nhưng nếu hắn tin rằng món hàng vừa bị đánh cắp gần đây bởi một nhóm đạo chích có nhiều chiến tích lẫy lừng...”
“Thì hắn sẽ cho rằng mình đang giao dịch với bọn tội phạm chuyên nghiệp chứ không phải điệp viên chuyên nghiệp.”
Gabriel im lặng thừa nhận.
“Thông minh nhỉ,” Durand nói, khẽ giơ ly lên, làm bộ như đang nâng cốc chúc mừng, “chính xác thì các ông đang tìm món gì?”
“Một chiếc bình gốm Hy Lạp đỏ, khoảng thế kỷ IV hoặc V trước Công nguyên, một món hàng đủ lớn để thu hút sự chú ý trên thị trường chợ đen.”
“Ông muốn nó có nguồn gốc tư hay công?”
“Tư nhân,” Gabriel trả lời. “Không được là bảo tàng.”
“Chuyện đó không khó khăn như ông nghĩ đâu.”
“Cướp một bảo tàng á?”
Durand gật đầu.
“Nhưng thế thì thật không phải phép.”
“Tùy ông thôi.” Durand ngồi xuống và nhìn đăm đắm vào ly rượu trong tay, vẻ suy tư. “Có một biệt thự bên ngoài Saint-Tropez. Nó nằm trên vịnh Cavalaire, không xa khu điền trang từng được sở hữu bởi một tay tài phiệt người Nga. Tôi quên mất tên tay ấy rồi.”
“Ivan Kharkov?”
“Phải, chính tay ấy. Ông biết hắn à?”
“Có nghe tiếng thôi.”
“Hắn đã bị ám sát bên ngoài nhà hàng yêu thích của mình tại Saint-Tropez. Tình huống khi ấy rất lộn xộn.”
“Tôi cũng nghe như thế. Nhưng anh đang kể với tôi về ngôi nhà hàng xóm của hắn.”
“Nó không to như nhà cũ của Ivan, nhưng chủ nhân của nó có gu không chê vào đâu được.”
“Đó là người thế nào?”
“Người Bỉ,” Durand nói giọng khinh khỉnh. “Tay này thừa kế một sản nghiệp khổng lồ và đang vung vít đến từng xu cuối cùng của mớ kếch sù đó. Cách đây vài năm, chúng tôi giải thoát hắn khỏi một bức tranh của danh họa Cezanne. Đánh tráo.”
“Anh đã để lại một bản sao.”
“Một bản chép khá tốt. Trong thực tế, anh bạn người Bỉ của chúng tôi dường như vẫn tin rằng bức tranh là đồ thật bởi vì theo tôi biết, tay này chưa bao giờ báo cáo vụ trộm với cảnh sát.”
“Đó là bức nào?”
“Ngôi nhà của Jas de Bouffan.”
“Ai thực hiện việc chép tranh?”
“Ông có những bí mật riêng, thưa ông Allon. Tôi cũng vậy.”
“Nói tiếp đi.”
“Tay người Bỉ còn vài bức Cezanne khác. Hắn cũng có một bộ sưu tập cổ vật rất ấn tượng. Có một món đặc biệt đáng yêu, một chiếc vò đất nung của Họa sĩ thời Amykos, thế kỷ V trước Công nguyên. Nó miêu tả hai phụ nữ trẻ dâng quà cho hai vận động viên nam khỏa thân. Cực kỳ gợi cảm.”
“Rõ ràng anh rất sành về gốm Hy Lạp.”
“Đó là niềm đam mê của tôi.”
“Tay người Bỉ này có thường ở lại biệt thự không?”
“Tháng Bảy và tháng Tám,” Durand đáp. “Thời gian còn lại trong năm biệt thự hoàn toàn bỏ trống, ngoại trừ người trông nhà sống trong ngôi nhà nhỏ ngay trong khuôn viên.”
“Vấn đề an ninh thì sao?”
“Chắc chắn một tay lão luyện như ông hiểu rằng đâu có thứ gì gọi là an ninh. Miễn là không có bất ngờ thì nhóm của tôi có thể đột nhập vào biệt thự và chuồn êm trong vòng vài phút. Và ông sẽ nhanh chóng có cái bình Hy Lạp của mình.”
“Tôi nghĩ mình cũng muốn một bức Cezanne.”
“Lại vì tính chân thật ư?”
“Chi tiết quan trọng mà, Maurice.”
Durand mỉm cười. Bản thân gã cũng là một người để ý tiểu tiết.
Gã chỉ có một yêu cầu duy nhất, rằng họ phải cưỡng lại ý muốn theo dõi đường đi nước bước của gã khi gã đang thực hiện giao kèo với họ. Họ mau mắn đồng ý, mặc dù trong thâm tâm không hề có ý định giữ đúng cam kết đó. Maurice Durand đã từng đánh cắp một loạt tranh trị giá hàng trăm triệu đô-la chỉ trong một mùa hè ngắn ngủi. Ta có thể tận dụng một tên tội phạm như Durand để phục vụ cho mục đích của mình, nhưng chỉ có kẻ ngốc mới để hắn tung hoành sau lưng mình mà không để mắt đến.
Trong ba ngày, Durand chỉ quanh quẩn trong beau quartier (góc phố thơ mộng) của mình ở phía bắc của quận Tám. Lịch trình của gã, cũng giống như cửa hàng của gã, đấy ắp những cái lạ lùng, thú vị của một thời đại khác. Gã vẫn nhâm nhi hai tách cà phê kem mỗi sáng tại chiếc bàn quen của quán bia quen, không bầu bạn với ai trừ xấp báo gã mua từ tabac (quầy thuốc lá) quen thuộc. Sau đó, gã sẽ băng ngang con phố nhỏ và mất hút trong cái lồng son tí hon của mình khi đồng hồ điểm mười giờ. Thỉnh thoảng, gã buộc phải chường mặt ra mở cửa cho khách hoặc người giao hàng, nhưng phần lớn thời gian Durand đều giam mình đơn độc. Đúng một giờ, gã sẽ đi ăn trưa, đến hai giờ rưỡi mới quay lại cửa hàng và ở rịt trong đó suốt cả buổi chiều. Lúc năm giờ, gã sẽ tạt sang thăm Quý bà Brossard. Sau đó, gã quay lại góc bàn của mình tại quán bia quen thuộc, thưởng thức một ly rượu Côtes du Rhone với vẻ thỏa mãn tột cùng.
Đối với những kẻ không may mắn buộc phải theo dõi cuộc sống có vẻ quá diễm phúc này, Maurice Durand là một đối tượng khiến họ vừa ngưỡng mộ không thôi vừa oán giận sâu sắc. Không mấy ngạc nhiên khi có một vài thành viên của đội, nhất là Yaakov, tin rằng Gabriel đã sai lầm khi đặt giai đoạn trứng nước của nhiệm vụ trong tay của một gã như vậy. “Hãy xem các báo cáo theo dõi,” Yaakov gay gắt nói trong bữa ăn tối tại ngôi nhà an toàn chính của đội nằm gần khu công viên Bois de Boulogne. “Rõ ràng tay Maurice này đã giấu nhẹm hàng triệu euro của chúng ta và không có ý định giao hàng.” Tuy vậy, Gabriel không mấy lo lắng. Trong quá khứ, Durand đã tỏ ra mình là người có nguyên tắc nhất định. “Hắn ta cũng là một tên trộm bẩm sinh,” Gabriel nói. “Và đạo chích thì thích nhất là ăn trộm của bọn giàu sụ.”
Niềm tin của Gabriel đã được đền đáp vào sáng hôm sau, khi Đơn vị 8200 nghe lỏm rằng Durand đã đặt vé hạng nhất trên chuyến tàu TGV đến thành phố Marseille, khởi hành lúc giữa trưa. Yaakov và Oded cũng lên cùng chuyến tàu với gã, và lúc năm giờ chiều hôm đó, họ quan sát con mồi của mình thực hiện một cuộc gặp mặt khá bí mật ở hải cảng Old Port với một ngư dân địa phương. Sau đó, họ xác định tay “ngư dân” chính là Pascal Rameau, kẻ cầm đầu một trong nhiều tổ chức tội phạm ở Marseille.
Đến lúc này điệp vụ dường như đã bắt đầu vào guồng, trong vòng hai mươi bốn giờ sau chuyến thăm của Durand, các thành viên trong băng Rameau đã bao vây biệt thự xa hoa của tay tỉ phú Bỉ. Gabriel biết điều này vì hai thành viên của đội ông, Yossi và Rimona, đã thuê ngắn hạn một biệt thự trên đồi nhìn xuống khu nhà và đã theo dõi nó liên tục nhờ sự trợ giúp của máy ảnh ống kính dài và máy quay video. Họ không nhìn thấy băng Rameau lui tới biệt thự lần nào nữa. Nhưng hai đêm sau đó, khi một cơn bão dữ dội bủa vây toàn bộ dải duyên hải Côte d’Azur, họ bị đánh thức bởi tiếng còi báo động réo inh ỏi dọc theo con đường ven biển. Trong vài giờ sau đó, họ thấy đèn xanh nhấp nháy một cách uể oải ở lối dẫn vào dinh thự bên bờ biển của ngài tỉ phú Bỉ. Máy quét vô tuyến cảnh sát tiết lộ mọi điều họ cần biết. Một bức tranh Cezanne, một chiếc bình Hy Lạp, không nghi phạm nào bị bắt giữ. C’est la vie*.
C’est la vie (ND):Đời là thế (Tiếng Pháp)
Vụ trộm được đăng trên tất cả các mặt báo, đó chính xác là điều họ đã mong đợi. Bức Cezanne là món được quan tâm nhất; chiếc bình Hy Lạp, một bình đựng rượu đáng yêu của Họa sĩ thời Amykos, chỉ là cái phụ. Vị chủ nhân quẫn trí người Bỉ treo giải thưởng lớn cho ai có thông tin giúp thu hồi cổ vật bị đánh cắp, trong khi công ty bảo hiểm của ông, tập đoàn Lloyd’s vĩ đại của London, lặng lẽ truyền tin rằng họ sẽ cân nhắc việc thanh toán tiền chuộc. Cảnh sát Pháp gõ vài cánh cửa và thẩm vấn một vài nghi phạm quen mặt, nhưng sau một tuần họ quyết định rằng họ có nhiều việc quan trọng cần làm hơn là săn đuổi một bức vẽ và một khối đất sét cũ sì. Với lại, trước đây họ đã từng đụng độ băng trộm này. Bọn chúng là dân chuyên nghiệp, không phải tay mơ, và khi chúng đã đánh cắp cái gì thì nó chẳng bao giờ xuất hiện lại.
Vụ trộm làm dấy lên làn sóng lo âu thường lệ lan tỏa khắp các phòng trưng bày nghệ thuật ở Paris, nhưng trong thế giới của Maurice Durand, nó chỉ là một viên sỏi ném vào mặt hồ tĩnh lặng. Họ nghe lỏm gã bàn về vụ án với cô hầu bàn quen tại quán bia, ngoài ra thì cuộc sống của gã vẫn tiếp diễn theo nhịp điệu đơn điệu như trước. Gã mở cửa hàng lúc mười giờ. Gã ăn trưa lúc một giờ. Và đúng năm giờ, gã tự thưởng cho mình được hưởng khoái lạc với Quý bà Brossard và sau đó nhấp ly rượu vang đỏ để vỗ về trái tim nhỏ bé vô tội của mình.
Cuối cùng, một tuần sau vụ trộm, gã gọi cho Gabriel vào một số điện thoại được thu xếp trước và nói rằng những món ông yêu cầu - chiếc phong vũ biểu bỏ túi của Thụy Sĩ đầu thế kỷ XX cùng cặp kính viễn vọng làm bằng đồng và gỗ do hãng Merz của Munich chế tác - đã đến nơi an toàn. Theo yêu cầu của Gabriel, tối hôm đó, Durand giao hàng đến căn hộ nhìn ra Pont Marie rồi nhanh chóng nhấn nút biến. Bức tranh, vẽ phong cảnh đồi núi Mont Saint-Victoire yêu dấu của danh họa Cezanne, đã được khéo léo tháo ra khỏi khung và đặt trong một ống giấy các-tông. Chiếc bình được gói vào một túi nylon thể thao của hãng Adidas. Eli Lavon tháo lớp bao và cẩn thận đặt nó lên bàn ăn. Sau đó, ông ngồi im vài phút cạnh Gabriel, chăm chú xem xét hình ảnh các thiếu nữ Hy Lạp đang dâng quà cho hai vận động viên nam khỏa thân.
“Phải có ai đó lãnh nhiệm vụ này,” cuối cùng Lavon lên tiếng, “nhưng người đó sẽ không phải là tôi.”
“Tôi là một nhà phục chế,” Gabriel nói. “Tôi cũng không thể.”
“Và tôi là một nhà khảo cổ,” Lavon trả lời như tự vệ.
“Vả lại, tôi chưa bao giờ hợp với mấy vụ thô bạo này.”
“Tôi chưa bao giờ ám sát một chiếc bình.”
“Đừng lo,” Lavon nói. “Không giống như các công việc trước đây của anh, cái này chỉ là tạm thời thôi.”
Gabriel nặng nề thở hắt, cho chiếc bình lại vào túi thể thao Adidas, và nhẹ nhàng đẩy nó trượt khỏi cạnh bàn. Âm thanh vang lên khi nó chạm mặt sàn nghe như tiếng xương gãy. Lavon từ từ mở dây kéo và buồn bã nhìn vào bên trong.
“Kẻ sát nhân,” ông thì thào.
“Phải có một người ra tay thôi.”
Bức tranh Cezanne lại không bị ngược đãi như vậy. Thật thế, trong những giờ cuối cùng của đội ở Paris, Gabriel nhẹ nhàng chăm nom những vết thương của nó như thể đó là một bệnh nhân cần chăm sóc đặc biệt. Mục tiêu của ông là cố định tranh sao cho một ngày nào đó, bức tranh có thể được trả về tay khổ chủ với tình trạng tương tự như khi được tìm thấy. Không có tay trộm đồ nghệ thuật bình thường nào rảnh rỗi làm chuyện như vậy, nhưng ý định làm cho giống thật của Gabriel cũng chỉ đến chừng mực này thôi. Trước hết ông là một nhà phục chế và quan trọng hơn nữa, việc chăm sóc bức Cezanne giúp làm giảm cảm giác tội lỗi vì đã đập vỡ chiếc bình.
Ông thoáng nghĩ đến việc trả bức tranh vào khung căng nhưng sau đó bỏ qua cách này, bởi lẽ nó sẽ khiến bức tranh khó mà được di chuyển một cách an toàn. Thay vào đó, ông dán lên bề mặt tranh một lớp bảo vệ bằng khăn giấy, sử dụng một loại keo da thỏ do chính ông pha chế trong bếp của ngôi nhà an toàn gần công viên Bois de Boulogne. Sáng hôm sau, khi keo đã khô, ông cẩn thận cất bức tranh lại vào ống các-tông và mang nó đến Đại sứ quán Israel tại số 3 Phố Rabelais. Trưởng chi nhánh Văn phòng ngại ngần không muốn nhận tài sản bị đánh cắp, chuyện này cũng dễ hiểu thôi, nhưng ông đành nhượng bộ sau khi nhận được một cú điện thoại từ Uzi Navot. Gabriel nhét bức tranh vào một góc không bị ẩm trong két của đại sứ quán và chỉnh nhiệt độ xuống mức hai mươi độ C dễ chịu. Sau đó, ông đi ra ga Lyon và bắt chuyến tàu trưa đến Zurich.
Trong suốt bốn tiếng đồng hồ trên tàu, ông ngồi vạch kế hoạch cho giai đoạn kế tiếp của hành động lần này, và tới sáu giờ tối hôm đó, ông đã lái một chiếc sedan Audi thuê được trên con đường uốn lượn duyên dáng trong khu trung tâm Bahnhofstrasse của Zurich. Ngồi bên cạnh ông, với chiếc túi thể thao Adidas kẹp giữa hai chân, là Eli Lavon. “Thụy Sĩ,” ông này lầm bầm, ủ rũ nhìn cảnh trí bên ngoài khung cửa. “Tại sao luôn là Thụy Sĩ kia chứ?”