Chương 23 THỊ TRẤN ST. MORITZ, THỤY SĨ
LÚC ĐÓ LÀ vào tháng Ba, nghĩa là St. Moritz, thị trấn nghỉ mát cổ kính ở thung lũng Upper Engadine, lại một lần nữa bị nhấn chìm trong sự cuồng loạn. Trên Phố Serlas, có lẽ là con đường mua sắm đắt đỏ nhất thế giới, các quý tộc từng một thời hào nhoáng lang thang rảo bước qua các cửa hàng, từ Chopard tới Gucci qua Chanel đến Bulgari, hòa cùng với các ngôi sao điện ảnh, siêu mẫu, chính trị gia, đại gia, được hộ tống rầm rộ bởi cả đoàn tùy tùng và bọn bợ đỡ đủ kiểu. Họ tranh giành chiếc bàn đẹp nhất tại nhà hàng La Marmite hoặc Terrace và đến đêm lại hân hoan cười nói đi vào các gian phòng riêng tại hộp đêm Dracula hay King’s Club, chỉ có vài người xỏ giày trượt tuyết. Tại thị trấn St. Moritz, trượt tuyết là trò tiêu khiển của những kẻ không có thứ gì hay hơn để làm.
Thế nhưng nằm khuất trên một nhánh đường yên tĩnh tựa một ốc đảo của lý trí, là Khách sạn Jagerhof cổ kính. “Quý cô” Jagerhof này trông vừa nghiêm trang vừa ủ dột và tệ nhất là lỗi thời. Vậy mà cô nàng chẳng mảy may bận tâm, trái lại còn có vẻ vui thích. Mấy cái nhà hàng của cô chẳng chút tiếng tăm; còn tiện ích bên trong thật tình đều thua xa những nơi khác. Cô không có spa nước nóng hay hồ bơi trong nhà, càng không có hộp đêm để thu hút những kẻ thích nhìn thấy tên mình được in đậm. Thứ âm nhạc duy nhất nghe được ở Jagerhof là giai điệu của bản tứ tấu đàn dây réo rắt vọng ra từ phòng khách vào cuối mỗi chiều, trong phút nghỉ ngơi mơ màng mà uyển ngữ gọi là après ski - sau ngày trượt tuyết.
Phòng ốc, giống hệt phong cách của cô nàng, là những di vật bám bụi thời gian thuộc về một thời đại khác. Khách quen thường chọn phòng ở tầng thấp vì thang máy hư lên hư xuống, còn ai muốn giá rẻ bèo thì bị hút về mấy gian phòng áp mái chật chội, cư ngụ ở một phòng như vậy là một người đàn ông Nga cao lêu nghêu với đôi mắt màu xám và nước da tái nhợt, trắng như tuyết trên đỉnh Piz Bernina. Đáng buồn thay, anh bị trẹo gối ngay ngày đầu tiên của kỳ nghỉ và từ hôm đó, anh hầu như chỉ quanh quẩn trong phòng mình. Thỉnh thoảng, anh sẽ ngồi bên cửa sổ nhỏ như lỗ châu mai và khao khát nhìn xuống đường, nhưng phần lớn thời gian anh nằm bẹp dí trên giường với cái chân bị thương được treo lên. Để giết thời gian, anh xem phim và nghe nhạc trên máy tính xách tay của mình. Các cô phục vụ phòng mô tả anh là người hết sức lịch sự, một điều khác thường với một người Nga.
Tuy nhiên, người ta không thể nói điều tương tự về tay bác sĩ xuất hiện ở Jagerhof bốn ngày sau vụ tai nạn đáng tiếc của anh chàng người Nga. Ông có chiều cao trung bình, mái tóc bạc phơ và đôi mắt nâu với ánh nhìn cảnh giác giấu sau cặp kính dày cộp. Sau này, những nhân viên Jagerhof nào không may chạm mặt ông trong chuyến thăm bệnh ngắn ngủi đều có chung nhận xét rằng ông trông giống kẻ làm người khác bị thương hơn là chữa lành cho họ.
“Đầu gối của anh thế nào rồi?” Gabriel hỏi.
“Nó vẫn còn đau nếu tôi dồn trọng lượng mình lên đó.”
“Vết thương trông không ổn lắm.”
“Ông phải thấy nó cách đây hai ngày cơ.”
Đầu gối được kê cao trên một cặp gối thêu biểu tượng mộc mạc của Jagerhof. Gabriel khẽ nhăn mặt khi kiểm tra vết sưng.
“Đâu ra mấy vết bầm tím này vậy?”
“Tôi phải đánh mãi mới ra đó.”
“Bằng cái gì? Bằng búa tạ ư?”
“Tôi đã tận dụng chai champagne mà khách sạn tặng.”
“Nó thế nào?”
“Là một món vũ khí cùn thì nó cũng được.”
Gabriel đi đến bên cửa sổ và nhìn xuống quảng trường Thụy Sĩ đẹp như trong bưu thiếp. Một bên là chiếc limousine đang đỗ lại với vẻ từ tốn của một con xe sang trọng trước lối vào một trong những khách sạn đắt tiền hơn trong khu nghỉ mát. Phía đối diện, ba người phụ nữ quấn áo choàng lông thú đang tạo dáng chụp hình bên cạnh một chiếc xe ngựa kéo. Sau một lúc, chiếc xe từ từ lăn bánh rời đi trong nhịp gõ khe khẽ của vó ngựa trên thảm tuyết dày đặc, để lộ cánh cổng khiêm nhường của phòng triển lãm Galleria Naxos. Nhìn xuyên qua ô cửa kính trưng bày rộng lớn phía trước, Gabriel có thể thấy David Girard đang nói chuyện với khách hàng về một trong những tác phẩm đặc sắc của phòng trưng bày, bức tượng La Mã thuộc thế kỷ I tạc một thiếu niên đang ngồi ngả lưng ra sau, mà giờ đây đã bị mất tay chân. Đoạn ghi âm cuộc đàm thoại, bằng tiếng Đức, khẽ khàng phát ra từ loa máy tính xách tay của Mikhail.
“Máy ghi âm được giấu ở đâu vậy?”
“Trên bàn làm việc của hắn.”
“Anh làm cách nào vậy?”
“Trong lần duy nhất ghé thăm cửa hàng, tôi giả vờ bỏ quên một cây bút bằng vàng rất giá trị. Quý ngài Girard tốt bụng nên đã cất nó ở đó, chờ dịp sau tôi lại đến. Vấn đề duy nhất là nó nằm ngay bên cạnh điện thoại. Mỗi khi có ai đó gọi đến phòng triển lãm thì nó réo inh ỏi như tiếng còi báo cháy vậy.”
“Công việc kinh doanh thế nào?”
“Chậm. Hắn thường tiếp một hoặc hai khách hàng vào buổi sáng và thêm vài khách vào cuối buổi chiều khi các khu trượt tuyết bắt đầu đóng cửa. Đến năm giờ, cả khu này lặng ngắt như tờ.”
“Có nhân viên nào nữa không?”
“Bà vợ thường tạt qua phòng triển lãm trong khoảng vài tiếng đồng hồ sau khi đã đưa hai nhóc Hansel và Gretel đến trung tâm giữ trẻ. Gia đình họ sống cách đây vài dặm, tại một thị trấn gọi là Samedan. Chỗ đó dễ chịu lắm. Tôi có cảm giác Daoud là thành viên duy nhất của Hezbollah sống ở đó.”
“Tên hắn là David,” Gabriel nói dứt khoát. “Và tại thời điểm này, chúng ta không thể chứng minh hắn là thành viên của bất kỳ tổ chức nào, ngoại trừ Hiệp hội các Nhà buôn Tác phẩm Nghệ thuật và cổ vật Thụy Sĩ.”
“Cho đến khi hắn thấy chiếc bình Hy Lạp xinh đẹp.”
“Có thể hắn sẽ không cắn câu đâu.”
“Hắn sẽ cắn câu,” Mikhail nói chắc chắn. “Sau đó chúng ta sẽ nướng hắn đến cháy khét, lật tới lật lui như kế hoạch ông đã vẽ trên tấm bảng ở Đại lộ King Saul.”
“Đôi khi hành động không diễn biến theo kế hoạch đã định.”
“Chuyện đó tôi có lạ gì.” Mikhail dò xét Gabriel một lúc. “Có lẽ đùa bỡn với một tay trong tổ chức Hezbollah bây giờ không hẳn là ý hay đâu.”
“Tôi gần như không nhận ra bản thân mình trong bộ cải trang này.”
“Khuôn mặt nổi tiếng của ông không phải là lý do duy nhất khiến ông nên nghĩ kỹ trước khi quyết định bước qua cánh cửa phòng triển lãm đó.”
Gabriel xoay người lại và nhìn thẳng vào Mikhail. “Anh nghĩ tôi không làm được à? Ý anh là vậy phải không?”
“Nadia al-Bakari đã chết trong tay ông tại hoang mạc Empty Quarter cách đây không lâu. Có lẽ ông nên để người khác thay ông đi vào đó và đong đưa mồi nhử.”
“Chẳng hạn như ai?”
“Tôi.”
“Anh thậm chí còn không lết nổi.”
“Tôi sẽ tọng vài viên giảm đau.”
“Anh biết bao nhiêu về mấy cái bình gốm đỏ Hy Lạp?”
“Hoàn toàn mù tịt.”
“Đó có thể là một vấn đề đấy.”
Mikhail im lặng.
“Vậy chúng ta nói xong chưa?” Gabriel hỏi.
“Xong rồi.”
Gabriel mở chiếc cặp nhôm mà ông xách theo lúc vào khách sạn. Bên trong là một mảnh vỡ của chiếc bình cổ, được bọc cẩn thận bằng vải len tuyết, cùng với một vài tấm hình 20x25 chụp các mảnh còn lại của chiếc bình. Bật một công tắc nhỏ bên trong, Gabriel đã kích hoạt hệ thống ghi âm và ghi hình của chiếc cặp. Sau đó, ông đóng cặp lại và nhìn Mikhail.
“Bên anh có bắt được tín hiệu chưa?”
“Được rồi.”
Gabriel bước tới trước gương và kiểm tra khuôn mặt xa lạ phản chiếu trong đó. Hài lòng với vẻ ngoài của mình, ông rời khỏi phòng, không nói thêm lời nào, và đi theo lối cầu thang xuống tiền sảnh ảm đạm của khách sạn Jagerhof. Ngay khi bước chân ra đường, ông không còn là vị bác sĩ kiệm lời đã đến điều trị chấn thương cho anh chàng người Nga nữa; giờ ông là Anton Drexler đến từ Công ty Dịch vụ cổ vật Quý, Hamburg, Đức. Mười phút sau, sau khi đã kiểm tra tỉ mỉ để tránh bị theo dõi, ông xuất hiện trước cổng vào của phòng triển lãm Galleria Naxos. Bên trong khung cửa sổ là bức tượng cậu bé La Mã cụt tay chân, trông đáng sợ như nạn nhân của một quả bom bên đường. Ngài Drexler xem xét bức tượng một hồi với cái nhìn am hiểu của một chuyên gia. Sau đó, ông đưa tay nhấn chuông, trình bày lý do mình đến đây và ngay lập tức được mời vào trong.