Chương 24 THỊ TRẤN ST. MORITZ, THỤY SĨ
PHÒNG TRIỂN LÃM được thắp đèn sáng trưng và xếp đặt khéo léo nhằm tránh cảm giác đồ đạc lộn xộn - chỗ này là một bộ sưu tập bình đựng rượu và vò hai quai của Hy Lạp, chỗ nọ là một lứa mèo bằng đồng của Ai Cập, còn chỗ kia bày hàng loạt những tượng đá cẩm thạch người cụt chân tay và đầu không có thân mình, giá cả cụ thể sẽ được báo khi khách liên hệ. Ở góc trong cùng của phòng kê một cái bàn sơn mài Trung Quốc, nơi David Girard, hay còn gọi là Daoud Ghandour, đang ngồi chờ để đón tiếp ông. Hắn mặc một chiếc áo len có khóa kéo, áo khoác đen, và quần dài trông như thể được may bằng vải nhung. Giữa vai và tai hắn đang kẹp một chiếc điện thoại màu đen sang trọng, và hắn đang nguệch ngoạc viết gì đó không đọc được trên giấy bằng cây bút vàng đắt tiền của Mikhail. Gabriel có thể mường tượng được tiếng giấy bút sột soạt phát ra trong căn phòng gác xép của Khách sạn Jagerhof.
Cuối cùng, Girard thì thầm một vài từ tiếng Pháp và gác máy. Hắn im lặng đánh giá vị khách trước mặt trong một lúc với đôi mắt nâu nhạt, sau đó, không đứng lên, hắn hỏi xin danh thiếp. Gabriel lẳng lặng rút danh thiếp của mình ra.
“Danh thiếp của ông không ghi địa chỉ hay số điện thoại,” Girard nói bằng tiếng Đức.
“Tôi thuộc tuýp người tối giản.”
“Sao tôi chưa từng nghe danh ông nhỉ?”
“Tôi cố không gây chú ý,” Gabriel trả lời với một nụ cười ra vẻ hiền lành. “Tiếng tăm chỉ tổ rách việc của tôi.”
“Chính xác thì ông làm gì?”
“Tôi tìm đồ lặt vặt. Từ chó đi lạc, mớ xu tiết kiệm giấu sau đệm ghế, đến đá quý cất dưới tầng hầm hay trên gác mái.”
“Ông là nhà buôn à?”
“Không giống anh, dĩ nhiên,” Gabriel nói, giọng tỏ ra khiêm tốn nhất có thể.
“Thế ai chỉ ông đến đây?”
“Một người bạn ở Rome.”
“Vậy tôi có thể biết quý danh của bạn ông không?”
“Người bạn đó giống tôi,” Gabriel đáp. “Ông ấy thích cuộc sống tĩnh lặng.”
“Ông nọ cũng chuyên tìm đồ à?”
“Có thể nói vậy.”
Girard trả lại danh thiếp và, khẽ đưa mắt, hỏi xem đồ bên trong cặp táp của Ngài Drexler.
“Có lẽ anh có chỗ riêng tư hơn một chút,” Gabriel đề nghị, liếc nhanh về phía cửa sổ lớn của phòng triển lãm nhìn ra quảng trường đông đúc.
“Có vấn đề gì sao?”
“Không có gì,” Gabriel trả lời với giọng điệu trấn an. “Chỉ là St. Moritz không còn như xưa nữa.”.
Girard săm soi Gabriel trước khi đứng lên và bước đến một cánh cửa được bảo vệ bằng mật mã. Sau cánh cửa là một phòng kho có hệ thống điều hòa không khí, bên trong chất đầy các món hàng chưa từng, và có lẽ sẽ chẳng đời nào được đem trưng bày chính thức trong phòng triển lãm. Gabriel tự đi xem quanh một vòng trước khi bấm mở khóa số của chiếc cặp. Sau đó, ông tháo lớp bọc mảnh vỡ chiếc bình với thao tác của ảo thuật gia và cẩn thận đặt nó lên bàn kiểm nghiệm để Girard có thể nhìn rõ hơn hình vẽ.
“Tôi không mua bán mảnh vụn,” hắn nói.
“Tôi cũng không bán kiểu đó.”
Gabriel đưa cho hắn xấp hình. Tấm cuối cùng chụp chiếc bình ba quai được ghép hờ lại với nhau.
“Bề mặt nó còn thiếu một vài mảnh,” Gabriel nói, “nhưng điểm này không phải là cái một nhà phục chế giỏi không chữa được. Tôi biết một tay có thể đảm đương việc này nếu anh muốn.”
“Tôi thích sử dụng người phục chế riêng của mình,” Girard trả lời.
“Tôi cũng cho là vậy.”
Girard đeo vào một đôi găng tay cao su và kiểm tra mảnh gốm vỡ bằng kính lúp chuyên dụng. “Tôi thấy nó giống như tác phẩm của Họa sĩ thời Amykos. Có lẽ khoảng năm 420 trước Công nguyên.”
“Tôi đồng ý với anh.”
“Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?”
“Rải rác khắp nơi,” Gabriel trả lời. “Đa số các mảnh vỡ đến từ các bộ sưu tập gia đình xưa ở Đức và cả Thụy Sĩ đây. Tôi đã mất năm năm để lần ra tất cả.”
“Thật vậy sao?”
Girard trả lại mảnh vỡ và lẳng lặng bước tới một máy tính. Sau khi hắn gõ lách cách vài cái, có một tờ giấy được in ra từ máy in màu. Đó là cảnh báo từ Hiệp hội các Nhà buôn Tác phẩm Nghệ thuật và cổ vật Thụy Sĩ. Đối tượng được đề cập là một bình gốm đỏ ba quai Hy Lạp của Họa sĩ thời Amykos, vừa bị đánh cắp hai tuần trước đó tại một dinh thự tư nhân ở miền Nam nước Pháp. Girard đặt tờ cảnh báo lên bàn cạnh mấy bức ảnh và nhìn Ngài Drexler, chờ một lời giải thích.
“Như anh đã biết,” Gabriel lên tiếng, lặp lại chính xác câu từ đã được Eli Lavon soạn sẵn, “Họa sĩ thời Amykos có sức sáng tạo rất dồi dào, đã tạo ra nhiều hình tượng truyền thống tiêu biểu xuất hiện nhiều lần xuyên suốt tác phẩm của mình. Chiếc bình của tôi chỉ là một bản sao của cái đã bị cuỗm ở Pháp.”
“Vậy đó là trùng hợp ngẫu nhiên?”
“Hoàn toàn ngẫu nhiên.”
Girard bật ra một tiếng cười hài hước, khô khốc. “Tôi e rằng người bạn ở Rome đã chỉ ông sai chỗ rồi, vì phòng triển lãm này không buôn cổ vật bị trộm cắp hay ăn cướp. Chuyện đó vi phạm quy tắc đạo đức của hiệp hội chúng tôi, chưa kể đến luật pháp của Thụy Sĩ nữa.”
“Trên thực tế, luật pháp Thụy Sĩ cho phép anh mua hàng nếu anh thật sự tin tưởng nó không phải hàng ăn cắp. Và tôi xin đảm bảo với anh, Ngài Girard, rằng chiếc bình cổ ba quai này là thành quả năm năm nỗ lực của riêng tôi.”
“Xin thứ lỗi khi tôi không tin lời nói suông từ một quý ông không có cả địa chỉ lẫn số điện thoại liên hệ.”
Thật là một màn diễn ấn tượng, nhưng vẫn có kẽ hở. Bằng chứng là đôi mắt của David Girard nãy giờ cứ dán lên mảnh gốm vỡ không rời. Gabriel tiếp xúc với giới buôn nghệ thuật đủ lâu để biết rằng mục tiêu của mình đang tính toán ra giá đề nghị. Gabriel thầm nghĩ, hắn chỉ cần được thúc đẩy thêm một chút nữa thôi.
“Thẳng thắn mà nói, Ngài Girard,” Gabriel cất giọng, “anh nên biết rằng có nhiều người khác đang muốn mua chiếc bình. Nhưng tôi đến thị trấn St. Moritz này bởi vì tôi nghe kể rằng anh có khả năng đẩy những món hàng kiểu này đi chỉ bằng một cú điện thoại.”
“Tôi e rằng ông đánh giá quá cao khả năng của tôi rồi.”
Gabriel mỉm cười như muốn nói ông không nghe lọt tai mấy lời này. “Danh sách khách hàng Trung Đông của anh là huyền thoại trong giới thương buôn, Ngài Girard. Chắc chắn anh có cách tạo dựng lai lịch để thỏa mãn một trong số họ. Theo tôi nhẩm tính, chiếc bình sau khi được ráp lại và đã qua phục chế sẽ có giá trị bốn trăm ngàn franc Thụy Sĩ. Tôi chấp nhận bán các mảnh vỡ với giá một trăm ngàn, và để anh lời ba trăm ngàn.” ông bồi thêm một nụ cười nữa. “Không tồi cho cái giá của một cuộc gọi đường dài đến Riyadh hoặc Dubai.”
Tay buôn im lặng đắm chìm trong suy tư, không màng vờ vịt rằng hắn không muốn thu mua chiếc bình nữa. “Năm mươi ngàn,” hắn trả giá, “thanh toán khi hoàn tất giao dịch.”
Gabriel bọc mảnh gốm vào lại tấm len tuyết. “Nếu anh muốn mua chiếc bình ba quai, thưa Ngài Girard, anh sẽ phải chồng đủ tiền trước cho tôi. Và mức giá này không thể thương lượng.”
“Tôi cần thêm thời gian để suy nghĩ.”
“Anh có hai mươi bốn giờ.”
“Làm sao để tôi liên hệ với ông?”
“Không cần đâu, tôi sẽ gọi cho anh vào chiều mai lúc năm giờ để biết câu trả lời. Nếu anh chịu mua, tôi sẽ giao hết các mảnh vào sáu giờ chiều và trông đợi nhận đủ tiền. Nếu câu trả lời là không, tôi sẽ gác máy và không bao giờ quấy rầy anh nữa.”
Để làm nhà an toàn, họ thuê một căn biệt thự gỗ duyên dáng bên sườn núi phủ tuyết phía trên ngôi làng, với mức giá hời chỉ năm ngàn franc Thụy Sĩ một đêm. Khi Gabriel đến, cả đội chào đón ông bằng cách đứng dậy vỗ tay hoan nghênh. Sau đó, họ bật đoạn ghi âm của cú điện thoại mà David Girard vừa gọi cho một đồng nghiệp ở Hamburg để hỏi thông tin về một gã con buôn hạng bét tên là Anton Drexler. “Có thể tôi nhầm,” Eli Lavon vừa cười vừa nói, “nhưng có vẻ như chúng ta đã thật sự bước vào cuộc chơi rồi.”
Dường như chưa từng có ai nghe về gã đó. Không một tin đồn tại Zurich. Không một lời bàn tán tại Geneva, chẳng có tăm hơi gì tại Basel hay New York. Trong thực tế, thứ gần nhất với một lần người ta thực sự trông thấy kẻ tên Anton Drexler mà David Girard dò la được là câu chuyện mơ hồ kể rằng một người giống với mô tả đó đã từng thử bán vài tượng nữ thần Hy Lạp giả mạo cho Nhà đấu giá Sotheby’s cách đây vài năm. “Hay tay ấy tự xưng là Dresden nhỉ? Xin lỗi tôi không giúp được gì thêm, David. Lần sau anh đến thì cùng đi ăn trưa nhé!”
Không lần ra manh mối gì có thể ngăn cản hắn tiến hành giao dịch, Girard bắt đầu tìm hiểu thứ khác, đó là khách mua tiềm năng cho món hàng mới tiềm năng của mình. Đúng như Gabriel đã dự đoán, chỉ cần một cú điện thoại đến Riyadh là có ngay một hoàng tử bậc thấp lập tức nhảy vào tranh mua với mức giá ba trăm ngàn franc Thụy Sĩ. Chưa thỏa mãn với giá đó, Girard gọi cho một nhà sưu tập ở Abu Dhabi và ông này đề nghị mức ba trăm hai mươi ngàn. Cuộc gọi tiếp theo đến Moscow dẫn dụ được một tay kinh doanh dầu mỏ người Nga ngã giá ba trăm bốn mươi ngàn, và lúc này vòng đấu giá chính thức bắt đầu. Vài giờ sau, cuộc đua kết thúc với chiến thắng tuyệt đối của vị hoàng tử Ả Rập Saudi, mức giá cuối cùng là bốn trăm hai mươi lăm ngàn, thanh toán ngay khi nhận hàng.
Kế tiếp, Girard gọi cho người của hắn tại chi nhánh St. Moritz của Ngân hàng Julius Baer và yêu cầu một trăm ngàn franc Thụy Sĩ bằng tiền mặt. Hắn đến lấy tiền lúc bốn giờ và mười lăm phút sau đã về đến phòng triển lãm, bồn chồn gõ cây bút vàng đắt tiền của Mikhail lên mặt bàn. Trong căn phòng gác xép của Khách sạn Jagerhof, âm thanh đó khuếch đại lên như tiếng búa khoan.
“Ông nghĩ hắn còn tiếp tục như thế trong bao lâu nữa?” Mikhail rên rỉ.
“Tôi nghĩ là đến khi tôi gọi hắn lúc năm giờ,” Gabriel trả lời.
“Vậy sao ông không mau mau kết thúc vụ này đi?”
“Bởi vì Ngài Drexler là một người coi trọng lời hứa. Và ông ấy nói sẽ gọi lúc năm giờ.”
Vậy là họ ngồi đó, Mikhail tựa trên giường, Gabriel ngồi trên bệ cửa sổ lỗ châu mai, David Girard gõ gõ bàn làm việc, sốt ruột chờ đợi cú điện thoại của Ngài Drexler. Cuối cùng, khi kim đồng hồ chỉ đúng năm giờ, Gabriel bấm số phòng triển lãm trên chiếc điện thoại di động dùng một lần và lấy giọng Đức hỏi trống không một câu đơn giản.
“Chịu hay không?” Sau khi nghe câu trả lời của Girard, ông nói, “Tôi sẽ đến đó trong một tiếng nữa. Nhớ đảm bảo là không có ai lảng vảng xung quanh khi tôi đến.”
Gabriel cúp máy và tháo thẻ SIM ra khỏi điện thoại. Trong một lúc, cả gian phòng chìm trong im lặng. Sau đó, tiếng gõ nhịp ngắt quãng lại bắt đầu vang lên, thậm chí còn lớn hơn so với lúc trước.
“Nếu hắn không dừng lại,” Mikhail nói, “tôi sẽ sang bên đó xử đẹp hắn.”
“Chúng ta cần hắn để thâm nhập vào mạng lưới gây quỹ của Hezbollah,” Gabriel nói. “Sau đó anh có thể xử hắn.”
Trong sáu mươi phút tiếp theo, có hai lần Gabriel và Mikhail được giải thoát khỏi tiếng gõ bút đinh tai nhức óc đó. Lần đầu tiên xảy ra lúc 5:10, khi bà vợ người Thụy Sĩ của Girard bất ngờ ghé qua uống một ly champagne để ăn mừng thương vụ chiếc bình. Lần thứ hai là lúc 5:40, khi một vị khách từ khách sạn kế bên, rõ ràng quá nhàn rỗi nên đòi đi tham quan một vòng phòng triển lãm. Người này cao ráo, nói tiếng Pháp, nước da sạm nắng, và đong đưa bên tay ông như món trang sức là một cô gái trẻ, đẹp mê hồn với mái tóc đen ngắn và một khuôn mặt trông như thể do chính El Greco vẽ. Họ nán lại trong đó chừng mười lăm phút, mặc dù cô nàng dành hầu hết thời gian đứng ngắm hình bóng phản chiếu của mình trong cửa sổ trưng bày của Girard. Rời khỏi phòng triển lãm, dường như họ có cãi nhau một lúc cho đến khi ông nọ thì thầm vài lời vào tai cô gái, khiến nụ cười nở bừng trên khuôn mặt trẻ con của cô. Khi khoác tay nhau băng ngang quảng trường, họ bước qua Ngài Anton Drexler, tay buôn các cổ vật đáng ngờ, như thể ông vô hình vậy.
Sau khi kiểm tra lần cuối đồng hồ đeo tay của mình, Gabriel đến trước cổng vào phòng triển lãm của Girard và, đúng y sáu giờ, ông đặt ngón tay cái lên nút chuông, ông trông đợi được nghe tiếng chuông rè rè êm tai của Girard nhưng thay vào đó lại thấy một ánh chớp màu trắng chói lòa. Sau đó, cậu bé La Mã cụt tay chân lao thẳng vào ông qua một bức tường lửa, và họ cùng nhau rơi vào bóng tối.