Chương 25 THỊ TRẤN ST. MORITZ, THỤY SĨ
QUẢ BOM ĐƯỢC lắp ráp chuyên nghiệp và cài đặt cẩn thận. thoạt đầu, Cảnh sát Liên bang Thụy Sĩ kết luận rằng nó được kích nổ bằng thiết bị hẹn giờ, mãi về sau họ mới khám phá ra thiết bị điều khiển là một chiếc điện thoại di động. Vụ nổ đã thổi tung hàng trăm cửa sổ ở trung tâm ngôi làng, gây ra một loạt vụ lở tuyết trên những sườn núi trượt tuyết cao nhất, và làm sập một mô hình trưng bày công phu các chai champagne hiệu Dom Pérignon ở đại sảnh trang hoàng lộng lẫy của khách sạn Badrutt’s Palace. Các mảnh kính vụn nhanh chóng được dọn dẹp với hiệu suất đặc trưng của người Thụy Sĩ, và trật tự nhanh chóng được lập lại. Mặc dù vậy, tất cả mọi người đều nhất trí rằng St. Moritz, thị trấn nghỉ mát xinh đẹp cổ kính ở thung lũng Upper Engadine, sẽ không bao giờ như xưa nữa.
Tuy vụ nổ có sức công phá mạnh nhưng chỉ có ba người thiệt mạng, bao gồm ông chủ phòng triển lãm nơi bị cài quả bom. Có năm mươi bốn người khác bị thương, trong đó có chủ tịch một ngân hàng lớn của Thụy Sĩ, một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Anh, và một siêu mẫu Cộng hòa Czech đến St. Moritz để giải khuây sau khi cuộc hôn nhân thứ ba của cô chấm dứt. Hầu hết những người bị thương chỉ bị vài vết cắt hay bầm tím nhỏ, nhưng rất nhiều người bị sóng nổ đánh văng dẫn đến gãy xương.
Một trong những nạn nhân bị thương nặng nhất lại không thể xác định danh tính, ông ta không mang theo hộ chiếu hoặc thẻ tín dụng tại thời điểm vụ nổ xảy ra, và sau đó dường như không thể nhớ ra tên của mình hay lý do tại sao mình có mặt ở St. Moritz. Bị vô số vết xước và chấn thương sọ não nhẹ, ông phải nằm viện nhiều ngày sau sự cố, không biết hoặc có vẻ không biết rằng mình là đối tượng mà phía cảnh sát Thụy Sĩ quan tâm sâu sắc.
Manh mối đầu tiên là đoạn băng ghi hình cho thấy ông đang đứng ở lối vào của phòng triển lãm vào thời điểm quả bom phát nổ, đội tóc giả và mang kính giả, tay xách một cặp táp nhôm - tất cả đều được thu hồi bởi các nhà điều tra hiện trường. Và sau đó là anh chàng cao lêu nghêu, mắt xám, nói giọng Nga, người đã cố gắng đưa ông ra khỏi quảng trường trước khi bị cảnh sát chặn lại. Và còn một tốp đông du khách nói đủ thứ tiếng đã cao chạy xa bay khỏi một dinh thự sang trọng trên triền núi sau khi ở vỏn vẹn ba đêm, dù đã đặt phòng cho cả một tuần. Lục soát kỹ lưỡng khắp tòa nhà cũng không tìm ra dù một mẩu giấy có thể truy ra tên tuổi và nhân thân của những người đã ở đó. Việc điều tra căn phòng gác xép của tay khách người Nga tại khách sạn Jagerhof cũng cho kết quả tương tự.
Tuy nhiên, chứng cứ đáng lưu tâm nhất chính là khuôn mặt không lẫn vào đâu được của người đàn ông bị thương, đang dần lộ ra khi các vết sưng xẹp đi và những chỗ bầm bắt đầu mờ dần. Khuôn mặt đó rất quen thuộc với tình báo Thụy Sĩ; trên thực tế, có cả một kệ hồ sơ trong phòng lưu trữ của DAP, cơ quan an ninh Thụy Sĩ, dành riêng cho các chiến tích của ông trên mảnh đất quê hương thiêng liêng, nhỏ bé của họ. Và giờ đây, khi nằm bẹp dí bất lực trên giường bệnh, ông rốt cuộc đã rơi vào tay họ. Có một số người muốn giăng lưới buộc ông lại vì sợ rằng ông sẽ tuột khỏi tay họ một lần nữa, nhưng những người tỉnh táo hơn thắng thế. Thế nên họ đứng canh bên ngoài cửa phòng bệnh và chờ vết thương của ông lành lại. Và khi ông đã hồi phục sức khỏe đủ để xuất viện, họ còng tay ông và đưa ông đi.
Họ tống ông vào một chiếc trực thăng mà chẳng buồn báo một lời với kantonspolizei (cảnh sát tiểu bang) và bay tốc hành đến trụ sở chính của Cảnh sát Liên bang Thụy Sĩ nằm trên đường Nussbaumstrasse, Bern. Sau khi lấy vân tay và chụp hình ông ở đủ mọi góc độ có thể, họ nhốt ông vào phòng tạm giam. Trong đó có một cái tivi màn hình phẳng bé tẹo, một bàn làm việc với bút viết và văn phòng phẩm, cùng một chiếc giường êm ái phủ khăn trải hồ bột. Cảnh sát Thụy Sĩ, Gabriel thầm nghĩ, quả là những ông chủ khách sạn tuyệt vời.
Họ bỏ mặc ông một mình trong vài giờ để ông có thời gian suy nghĩ về tình thế gay go của mình, sau đó, không có cảnh báo hoặc đại diện pháp luật, họ đã áp giải ông với đôi tay bị còng chặt vào phòng thẩm vấn. Ở đó đã có viên cảnh sát phụ trách vụ án của Gabriel chờ sẵn. Anh ta tự xưng là Ziegler. Không có tên, không có cấp bậc, không nói chuyện phiếm - chỉ Ziegler. Anh cao ráo và là người miền ngược ở dãy Alps, với nước da hồng hào khỏe mạnh và đôi vai vuông rộng của một vận động viên trượt tuyết băng đồng. Trên bàn thẩm vấn trước mặt anh bày rất nhiều hình chụp Gabriel trong các giai đoạn sự nghiệp khác nhau, dưới nhiều lớp ngụy trang khác nhau, chúng cho thấy ông đi vào và ra các ngân hàng, băng qua những tiền sảnh khách sạn và biên giới, và có một tấm chụp khi ông đang tản bộ dọc theo bờ kênh xám xịt của Zurich, sóng đôi bên cạnh là nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Thụy Sĩ, Anna Rolfe. Ziegler dường như đặc biệt tự hào về cách bày bố này. Rõ ràng, anh đã đặt vào đó nhiều tâm huyết.
“Chúng tôi có một giả thuyết,” anh mở lời khi Gabriel ngồi xuống.
“Tôi nóng lòng muốn nghe lắm rồi đây.”
Khuôn mặt của Ziegler điềm tĩnh như mặt hồ không đáy ở Thụy Sĩ. “Hình như trước khi đến St. Moritz, ông đã ghé qua Pháp. Tại đây ông đã đánh cắp một bức tranh của Cezanne và một bình rượu ba quai Hy Lạp hai ngàn năm tuổi. Sau đó ông chuyển những mảnh bình qua biên giới và tìm cách bán nó cho David Girard của phòng triển lãm Galleria Naxos. Tuy nhiên, Girard không nhận ra là ông không có ý định giao chiếc bình, vì mục đích thực sự của trò bịp này là giết hắn.”
“Tại sao tôi lại muốn giết một tay buôn đồ cổ ở Thụy Sĩ?” “Bởi vì, ông thừa biết tay buôn đồ cổ đó không phải người Thụy Sĩ. Hừm,” Ziegler bổ sung với một cái cau mày bài ngoại, “không thực sự là người Thụy Sĩ. Hắn sinh ra ở miền Nam Lebanon. Và theo chỗ chúng tôi được biết, hắn hình như vẫn làm ăn với bên đó. Đó là lý do tại sao tình báo Israel muốn hắn đền mạng.”
“Nếu chúng tôi muốn hắn chết, chúng tôi đã tiến hành theo cách khác, mà không tước đi mạng sống của hai người vô tội trong quá trình này.”
“Thật cao thượng làm sao, Ngài Allon.”
“Dường như anh quên mất một chi tiết,” Gabriel mệt mỏi nói.
“Chi tiết gì?”
“Quả bom đó suýt giết chết tôi.”
“Vâng,” Ziegler thản nhiên trả lời. “Có lẽ Gabriel Allon huyền thoại đã bị lụt nghề.”
Gabriel được trả về phòng tạm giam, được thết đãi một bữa ăn Thụy Sĩ tươm tất gồm khoai tây phô mai raclette và thịt bê phủ vụn bánh mì. Sau đó, ông xem bản tin thời sự buổi tối bằng tiếng Đức trên kênh SF1. Mười lăm phút trôi qua họ mới nói đến vụ đánh bom ở St. Moritz. Đó là tin nổi bật của chương trình, bàn về ảnh hưởng của vụ việc đến lượng đặt phòng khách sạn. Mẩu tin không đề cập đến quan hệ giữa David Girard với tổ chức Hezbollah, và cũng không đề cập đến việc bắt giữ bất kỳ nghi phạm nào trong vụ án, mà theo Gabriel đây là một tín hiệu đáng mừng.
Sau bữa tối, một bác sĩ lẳng lặng kiểm tra các vết thương và thay băng cho ông. Sau đó, ông được đưa trở lại phòng thẩm vấn cho phiên thẩm tra tối. Lần này chẳng thấy bóng dáng Ziegler đâu. Thay vào đó là một tay gầy guộc với dáng vẻ xanh xao của một người không có thời gian cho các hoạt động ngoài trời. Anh ta tự giới thiệu mình là Christoph Bittel thuộc bộ phận chống khủng bố của DAP, có nghĩa anh ta là gián điệp hơn là cảnh sát. Đó là một tín hiệu đáng mừng khác. Cảnh sát chuyên bắt bớ. Điệp viên thích bắt tay thương lượng.
“Trước khi chúng ta bắt đầu,” anh nói giọng đều đều, “ông cần biết rằng Ziegler và Bộ Tư pháp và Cảnh sát Liên bang Thụy Sĩ đang định chính thức khởi tố ông vào sáng ngày mai. Họ có đầy đủ bằng chứng để đảm bảo rằng ông sẽ ở tù mọt gông tại Thụy Sĩ. Ông cũng nên biết rằng có rất nhiều người tại Bern đây rất khao khát được trao vinh dự hộ tống ông vào trại giam.”
“Tôi không dính dáng gì đến quả bom đó.”
“Tôi biết.”
Bittel cầm lên một chiếc điều khiển và chĩa vào màn hình video ở góc phòng, vài giây sau, trên màn hình xuất hiện hai nhân vật - người đàn ông cao to nói tiếng Pháp và cô gái với khuôn mặt như tranh vẽ của El Greco. Gabriel một lần nữa được xem cảnh người đàn ông âu yếm thì thầm vào tai cô gái.
“Đây là những tên cài bom thực sự,” Bittel cho biết và tạm dừng video. “Cô nàng giấu thiết bị trong phòng vệ sinh nữ của phòng triển lãm trong khi đồng nghiệp của ả đánh lạc hướng Girard.”
“Bọn họ là ai?”
“Chúng tôi hy vọng ông sẽ có thể cho chúng tôi câu trả lời.”
“Tôi chưa từng gặp bọn họ trước đêm đó.”
Bittel dò xét Gabriel một lúc bằng ánh mắt ngờ vực trước khi tắt màn hình video. “Allon, ông là một người phước lớn mạng lớn. Có vẻ như ông quen biết khá lớn. Một trong số những người bạn của ông đã ra mặt cho ông.”
“Vậy là xong rồi hả? Tôi được trả tự do?”
“Không hẳn vậy. Ông đã vi phạm nhiều điều luật cấm hoạt động gián điệp nước ngoài - những luật lệ mà đất nước chúng tôi rất coi trọng, chúng tôi là một đất nước hiếu khách,” anh này nói thêm, như thể đang chia sẻ thông tin tuyệt mật, “nhưng chúng tôi cũng yêu cầu khách nước ngoài phải lịch sự ký vào sổ lưu tên khách, tốt nhất là bằng tên thật của họ.”
“Và các anh sẽ làm gì nếu như trước đó chúng tôi yêu cầu trợ giúp?”
“Chúng tôi hẳn đã đuổi ông đi và tự mình xử lý,” Bittel đáp. “Chúng tôi là người Thụy Sĩ. Chúng tôi không thích người ngoài can thiệp vào công việc của mình.”
“Chúng tôi cũng thế thôi. Nhưng tiếc là chúng tôi phải chịu đựng nó hằng ngày.”
“Tôi e rằng là người Israel thì phải thế,” Bittel nói với một cái gật đầu nghiêm trang. “Lịch sử đối xử với các ông thật tệ hại, nhưng điều đó không có nghĩa là các ông có quyền xem đất nước của chúng tôi như kiểu một khu nghỉ dưỡng tình báo.”
“Mấy chuyến viếng thăm của tôi đến đất nước này chưa bao giờ được dễ chịu vậy.”
“Nhưng chuyến nào cũng hiệu quả. Và đó mới là trọng điểm. Ông rất chịu khó, Allon. chúng tôi ngưỡng mộ điều đó.”
“Vậy anh muốn gì từ tôi?”
“Chúng tôi muốn ông đóng hết các tài khoản ở Thụy Sĩ.”
“Có nghĩa là?”
“Tôi đặt câu hỏi về các hoạt động trong quá khứ của ông và ông chỉ việc trả lời. Một cách thành thật, để đổi gió,” anh ta nói dứt khoát.
“Có lẽ sẽ mất khá nhiều thời gian.”
“Tôi không có việc gì khác. Và ông cũng thế, Allon.”
“Vậy nếu tôi từ chối?”
“Ông sẽ chính thức bị buộc tội gián điệp, khủng bố và giết người. Và ông sẽ phải dành hết kỳ nghỉ hưu khó khăn lắm mới có được ở đây, ngay tại Thụy Sĩ.”
Gabriel ra vẻ đấu tranh tư tưởng một chốc. “Tôi e rằng vậy chưa đủ.”
“Cái gì chưa đủ?”
“Thỏa thuận này,” Gabriel nói. “Tôi muốn có một thỏa thuận tốt hơn.”
“Ông không có quyền ra yêu sách ở đây, Allon.”
“Các anh sẽ không bao giờ đem tôi ra tòa, Bittel. Tôi biết quá nhiều về tội lỗi của mấy ông chủ ngân hàng và tư bản công nghiệp của các anh. Nó sẽ là một thảm họa quan hệ công chúng đối với Thụy Sĩ, cũng giống như bê bối đền bù cho nạn nhân thảm sát Holocaust vậy.” Ông dừng lại. “Anh nhớ mà, phải không? Tin tức tràn ngập các mặt báo.”
Lần này đến lượt Bittel tỏ vẻ cân nhắc. “Được rồi, Allon. Ông muốn gì?”
“Tôi nghĩ rằng đã đến lúc mở ra chương mới trong quan hệ Thụy Sĩ - Israel.”
“Bằng cách nào?”
“Rõ ràng các anh đã theo dõi David Girard một thời gian,” Gabriel nói. “Tôi muốn bản sao hồ sơ của các anh, bao gồm cả tài liệu theo dõi điện thoại và e-mail.”
“Không thể được.”
“Thế giới giờ đã khác xưa, thời đại công nghệ rồi, Bittel.”
“Tôi cần cấp trên phê chuẩn.”
“Tôi có thể đợi,” Gabriel trả lời. “Như anh nói đó, tôi không có việc gì phải vội.”
Bittel đứng lên và rời khỏi phòng thẩm vấn. Hai phút sau, anh ta quay trở lại. Quả thật người Thụy Sĩ làm việc vô cùng hiệu quả.
“Tôi nghĩ sẽ dễ hơn nếu ta đi ngược dòng từ hiện tại về quá khứ,” Bittel nói, mở máy tính xách tay của mình. “Cách đây vài tháng, một cư dân Zurich đã bị chặt đầu trong một phòng khách sạn ở Dubai, chúng tôi đang tự hỏi liệu ông có thể cho chúng tôi biết lý do tại sao.”
Nhiều năm trước đây, một người Thụy Sĩ phản đối chính quyền gọi là Giáo sư Emil Jacobi đã cho Gabriel một lời khuyên đúng đắn. “Khi đối phó với Thụy Sĩ,” ngài giáo sư giảng giải, “phải luôn nhớ một điều. Thụy Sĩ không phải là một đất nước thực sự. Nó là một doanh nghiệp, và nó hoạt động như một doanh nghiệp vậy.”
Vì vậy, Gabriel chẳng hề thấy ngạc nhiên khi Bittel tiến hành cuộc trao đổi với sự nghiêm trang lạnh nhạt như một cuộc giao dịch tài chính. Phong cách của anh này y hệt như một ông chủ ngân hàng tư nhân, lịch sự nhưng xa cách, chu đáo tỉ mỉ nhưng dè dặt thận trọng. Anh làm việc của mình với đủ tận tâm nhưng không tỏ vẻ ác ý vô lý. Gabriel có ấn tượng rõ ràng là tay nhân viên an ninh này không muốn hồ sơ lưu lại chuyện gì có thể gây hậu họa về sau, rằng anh ta chỉ đơn thuần điểm qua danh mục câu hỏi và kiểm tra sổ cái. Nhưng đó là cách làm việc của chủ ngân hàng Thụy Sĩ. Anh ta muốn thu tiền của khách hàng, nhưng không nhất thiết phải quan tâm xem nó đến từ đâu.
Cả hai người cùng điểm lại các vụ việc theo trình tự ngược thời gian, lần lần cho đến vụ án Augustus Rolfe, đột phá đầu tiên của Gabriel vào hành vi đáng lên án của các ngân hàng Thụy Sĩ trong chiến tranh Thế giới thứ hai. Ông cẩn thận không thốt lên từ nào mang tính buộc tội, và cẩn thận hơn để không tiết lộ các nguồn tin hoặc kỹ thuật hoạt động tình báo của Văn phòng. Khi bị Bittel thúc tiết lộ thêm, ông nhẹ nhàng ép ngược lại đối phương. Và khi bị đe dọa, ông đưa ra đe dọa của mình, ông không xin lỗi cho hành động của mình hay tìm kiếm sự tha thứ. Ông thú nhận mà không có cảm giác tội lỗi hay mong muốn chuộc tội. Đó là một giao dịch kinh doanh, không hơn không kém.
“Tôi có bỏ sót bất cứ chuyện gì không?” Bittel hỏi.
“Anh không thực sự trông đợi tôi trả lời câu hỏi này, đúng không?”
Bittel đóng máy tính xách tay và gọi một cai ngục đưa Gabriel trở lại buồng giam, chờ đón ông ở đó là một bữa ăn sáng Thụy Sĩ tươm tất, cùng một bộ đồ dùng vệ sinh cá nhân và quần áo để thay, ông vừa ăn sáng vừa xem bản tin thời sự. Một lần nữa, họ không đề cập gì đến việc giam giữ ông. Trong thực tế, tin tức duy nhất về St. Moritz chỉ xoay quanh một giải vô địch trượt tuyết thế giới quan trọng.
Sau khi ăn sáng, ông được hộ tống đến buồng tắm và được cho một giờ để tắm táp và thay đồ. Khi quay trở lại buồng giam thì ông thấy Bittel đã đứng chờ sẵn. Anh ta cầm hai chiếc cặp nhôm được sản xuất tại Thụy Sĩ. Trong một cặp là số tài liệu mà Gabriel đã yêu cầu. Trong cặp còn lại là những mảnh vỡ của chiếc bình ba quai. “Nếu ông muốn,” Bittel đề nghị, “chúng tôi có thể nói với cảnh sát Pháp là chúng tôi tìm thấy chiếc cặp này trong một ngăn tủ khóa ở sân bay.”
“Xin cảm ơn,” Gabriel đáp, “nhưng tôi sẽ tự lo liệu.”
“Càng sớm càng tốt,” Bittel khuyên. “Đi thôi. Xe đón ông đã tới.”
Họ lên lầu ra sảnh chính của tòa nhà. Bên ngoài, một chiếc Mercedes đang chờ sẵn trên lối vào, ống pô của nó nhẹ nhàng xả khói. Bittel nồng nhiệt bắt tay Gabriel, như thể tối qua họ đã cùng nhau xem lại những bộ phim cũ. Sau đó Gabriel xoay bước và cúi đầu chui vào ghế sau xe. Ngồi đối diện, với tai nghe bluetooth ép vào tai, là Uzi Navot. Ông này nhìn vào số bông băng trên mặt của Gabriel và cau mày.
“Có vẻ như chúng đã cho anh một trận ra trò.”
“Cũng đáng mà.”
“Anh đã nhận được gì?”
“Một cặp táp đầy sự giúp đỡ từ những người bạn mới kết thân của tôi trong DAP.”
“Tốt quá,” Navot nói. “Bởi vì lúc này, chúng ta cần mọi sự trợ giúp có thể nhận được.”