Chương 26 THÀNH PHỐ BERN, THỤY SĨ
GABRIEL VÀ NAVOT đều cho rằng phía Thụy Sĩ đã cài máy nghe lén trong cả hai chiếc cặp nên họ không nói gì thêm cho đến khi đã vào trong Đại sứ quán Israel an toàn. Đại sứ quán nằm trong một căn nhà cũ kỹ ảm đạm trên phố ngoại giao, trong một con đường nhỏ cấm giao thông dân sự bình thường. Biết trước họ sẽ đến, các nhân viên đã bày đầy bánh mì sandwich và chocolate Thụy Sĩ trong phòng thông tin an toàn. Navot khẽ chửi thề khi buông thân hình nặng nề xuống ghế.
“Khi Shamron còn điều hành Văn phòng, các Trưởng chi nhánh địa phương luôn trữ sẵn vài gói thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng giờ đây bất cứ khi nào tôi đến, họ lại bày biện đồ ăn. Đôi khi tôi có cảm tưởng rõ rệt là mình đang được vỗ béo để mổ thịt.”
“Anh là chỉ huy được yêu mến nhất sau thời Shamron, Uzi. Quân đội yêu mến anh. Quan trọng hơn, họ tôn trọng anh. Và Thủ tướng cũng vậy.”
“Nhưng tất cả đều có thể thay đổi trong chớp mắt nếu tôi không xử trí tốt chuyện Iran,” Navot nói. “Nhờ có anh mà chúng ta có thể kìm chân họ trong một thời gian, nhưng phá hoại hay ám sát sẽ không có tác dụng mãi mãi. Một lúc nào đó trong tương lai gần, người Iran sẽ vượt qua lằn ranh đỏ, sau đó chúng ta sẽ không thể ngăn họ trở thành một mối đe dọa về năng lượng hạt nhân. Tôi phải báo với Thủ tướng khi chuyện đó sắp xảy ra. Chỉ cần tôi xê xích vài ngày thôi là chúng ta sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc sống trong nơm nớp lo sợ trước nguy cơ nhận một quả bom Iran.” Navot nhìn Gabriel bằng ánh mắt nghiêm túc. “Liệu anh có thích mối đe dọa đó treo lơ lửng trên đầu mình không?”
“Không hể. Đó là lý do tại sao tôi nói Shamron để anh làm chỉ huy thay tôi.”
“Có khả năng anh suy nghĩ lại không?”
“Tôi sợ mình sẽ là một nỗi thất vọng sau anh, Uzi à.”
“Tôi đánh giá cao lá phiếu tín nhiệm của anh.” Navot đẩy khay thức ăn về phía Gabriel. “Ăn chút gì đi. Anh hẳn đang đói mốc đói meo sau tất cả những gì đã trải qua.”
“Trên thực tế, họ đã chăm sóc tôi rất tốt.”
“Họ cho anh ăn gi?”
Gabriel kể cho Navot nghe.
“Đồ ăn có ngon không?”
“Phô mai raclette rất ngon.”
“Bao giờ tôi cũng thích phô mai raclette.”
“Đó là khoai tây phủ phô mai. Sao mà không thích được?” Navot chộp lấy một miếng sandwich kẹp trứng với cải xoong trên khay và nhét tọt nó vào miệng. “Tôi xin lỗi về việc phải bỏ anh lại ở St. Moritz, nhưng tôi nghĩ sẽ dễ cứu một điệp viên từ tay cảnh sát Thụy Sĩ hơn là cả mẻ chín người. May mắn là chúng ta có quý nhân giúp đỡ.”
“Ai cơ?”
“Bạn bè của anh tại Vatican.”
“Donati à?”
“Cao hơn thế nữa.”
“Làm ơn đừng nói với tôi rằng anh để Đức Giáo hoàng dính vào vụ này.”
“Tôi e là tự bản thân ông quyết định tham gia,” Navot nói.
“Bằng cách nào?”
“Ông chỉ thị Alois Metzler của Đội Cận vệ Thụy Sĩ gọi vài cú điện thoại bí mật cho Bern. Một khi Metzler đã can thiệp thì việc thả anh chỉ là vấn đề thời gian thôi. Văn phòng có thể đứng ngoài vụ này hoàn toàn.”
“Tôi đã phải trả phí mới được thả ra.”
“Phí cao cỡ nào?”
Gabriel kể cho Navot nghe về cuộc trao đổi.
“Có chuyện nào anh nói là đúng sự thật không?”
“Chút chút.”
“Cậu bé ngoan.” Một miếng bánh sandwich khác chui tọt vào miệng của Navot.
“Tôi đồ rằng anh chưa xác định được danh tính của hai kẻ đã đến phòng triển lãm trước tôi.”
“Tất nhiên chúng tôi đã tìm ra,” Navot cho biết, phủi vụn bánh trên đầu ngón tay. “Cô gái là một người mới, nhưng bạn trai của ả khá quen thuộc với chúng ta. Tên gã là All Montazeri.”
“Người Iran à?”
Navot gật đầu. “Ali là một cựu sinh viên danh dự của Lực lượng Đặc nhiệm Quds. Giờ gã đang là một tay súng đánh thuê và sát thủ cho VEVAK. Gã là kẻ đã giết chết hàng chục người Iran chống chính quyền Iran ở châu Âu và Trung Đông. Thực ra, gã đã một lần cố ám toán tôi khi tôi đang hoạt động ở Paris.”
“Tại sao người Iran lại cử một trong những sát thủ giỏi nhất của họ đến Thụy Sĩ để giết một gián điệp Hezbollah?”
“Câu hỏi hay đấy.” Navot im lặng một lúc. “Trong khi anh đang thưởng thức thịt bê và phô mai raclette trong nhà tù Thụy Sĩ, Văn phòng lại bị ngợp trong làn sóng tin tình báo cho thấy Hezbollah chuẩn bị tấn công chúng ta. Chúng ta đang nói về một vụ rất lớn, Gabriel.”
“Lớn như thế nào?”
“Lớn cỡ vụ 11 tháng 9,” Navot nói. “Đủ lớn để châm ngòi cho một cuộc chiến tranh. Và dựa trên những gì chúng ta đang chứng kiến ở miền Nam Lebanon, có vẻ như Hezbollah đang chuẩn bị lâm chiến. Họ đang triển khai máy bay chiến đấu thiện chiến đến gần biên giới của chúng ta. Tên lửa của họ cũng đang được điều động.”
“Chúng ta có biết gì thêm về mục tiêu của họ không?”
“Tất cả những lời bàn tán vẫn hướng đến châu Âu, đó là lý do tại sao thời điểm thủ tiêu David Girard lại thú vị như vậy. Dina có một linh cảm không giải thích được rằng có mối liên hệ nào đó giữa hai sự việc trên.”
“Tôi cảm thấy lo lắng khi Dina có một linh cảm không giải thích được.”
“Tôi cũng vậy.”
“Anh chắc chắn bao nhiêu phần trăm rằng kẻ đã cài quả bom đó chính là Ali Montazeri?”
“Một trăm phần trăm.”
“Tôi cho rằng có lẽ chúng ta nên báo với những người bạn Thụy Sĩ về việc này.”
“Đó là một việc tốt, đáng trọng,” Navot nói. “Tuy nhiên lúc này, thay vì làm thế, tôi muốn mượn một trang từ sách chiến lược của người Iran.”
“Sách nào?”
“Khod’eh."
“Lừa kẻ thù để hắn phán đoán sai về vị thế của mình?”
“Chính xác.”
“Anh đang nghĩ gì trong đầu vậy?”
“Đầu tiên chúng ta lừa cho người Iran nghĩ rằng họ không bị phát giác trong vụ ở St. Moritz. Sau đó, chúng ta đem số tài liệu mà phía Thụy Sĩ cung cấp về Đại lộ King Saul và giao cho Dina phụ trách.”
“Chúng ta còn một chuyện nữa cần làm,” Gabriel nói.
“Chuyện gì?”
“Tìm một người ghép lại chiếc bình Hy Lạp cho nguyên vẹn.”
“Chứ anh không tự làm được à?”
“Táo là táo, cam là cam, hai cái không giống nhau.”
Navot nhìn xuống đĩa bánh mì sandwich. “Anh thật không đói hả? Đồ ăn thực sự khá ngon đó.”
“Anh cứ tự nhiên đi, Uzi.”
“Có lẽ chúng ta nên gói chúng lại để nhâm nhi trên máy bay. Đồ ăn thức uống của hãng El Al không ngon như hồi xưa nữa.”
Họ bay chuyến 12:45 trưa, khởi hành từ sân bay Kloten tại Zurich, và đến 5:30 chiều họ đã đáp xuống sân bay Ben Gurion. Chiếc limousine Peugeot bọc thép của Navot chờ sẵn trên đường băng, lố nhố vệ sĩ vây quanh, số lượng đông gấp hai lần so với bình thường. Có một phụ nữ đang đứng tựa vào mui xe, đôi chân mặc quần jean xanh bắt chéo, tay khoanh vòng trước ngực, là Chiara. Nàng bước đến lặng lẽ ôm Gabriel một hồi lâu, khuôn mặt đẫm nước mắt vùi vào hõm cổ ông. Sau đó, nàng hôn lên môi ông và khẽ chạm vào miếng băng dán trên má ông.
“Nhìn anh thê thảm quá.”
“Thật ra anh còn cảm thấy tệ hơn nữa.”
“Em muốn bảo anh về nhà và chợp mắt trong vài giờ, nhưng e là chúng ta không có thời gian để nghỉ ngơi.”
“Có chuyện gì sao?”
Nàng đưa một tờ giấy cho Navot. Ông đọc nó bằng ánh đèn pha của chiếc limousine.
“Chỉ huy quân sự của Hezbollah hạ lệnh cho các lực lượng vũ trang chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc trả đũa quy mô lớn nhằm vào Israel trong vòng hai tuần tới.” Navot vò mẩu giấy nhắn thành một cục tròn. “Vậy mọi chuyện đúng là sự thật. Chúng sẽ tấn công chúng ta, Gabriel. Rất mạnh, và sớm thôi.”
Hóa ra, người thẩm vấn Gabriel từ cơ quan an ninh Thụy Sĩ đã giữ đúng lời hứa, và còn hơn thế nữa. Eli Lavon ví cái kho tàng tình báo của họ như việc phát hiện ra một tòa thành của một nền văn minh mà ta chưa từng biết đến trước đó. Đáng nói hơn là, ông bảo, thông tin được cung cấp bởi một cơ quan luôn luôn đối nghịch sâu sắc với lợi ích của Israel, thậm chí với cả sự tồn tại của nó. “Có lẽ chúng ta không đơn độc một mình,” ông nói với cả đội vào bữa ăn tối đêm đó. “Nếu Thụy Sĩ có thể mở cửa cho chúng ta trong giờ khắc sinh tử thì không có gì bất khả thi nữa.”
Có vẻ như David Girard, hay còn gọi là Daoud Ghandour, đã xuất hiện trên ra đa theo dõi nội bộ của DAP không lâu sau khi hắn được cấp sổ hộ chiếu đỏ Thụy Sĩ, cho phép hắn tùy ý nhập cảnh và xuất cảnh khỏi các nước Trung Đông. Trong tập tài liệu có ghi chép của trưởng trạm Onyx, hệ thống nghe trộm điện tử tinh vi của Thụy Sĩ, bày tỏ lo ngại về lưu lượng truy cập e-mail và điện thoại của phòng triển lãm Galleria Naxos, chưa kể đến các khoản giao dịch tài chính. DAP còn tử tế gửi báo cáo đính kèm, cùng với tất cả các bản cập nhật tiếp theo từ trạm Onyx. Cộng thêm thông tin tình báo mà đội của họ sở hữu, tập tài liệu cung cấp bằng chứng không thể chối cãi rằng phòng triển lãm Galleria Naxos là bức bình phong che giấu hoạt động gây quỹ của tổ chức Hezbollah. Ngoài ra, cũng rõ ràng không kém là sự liên kết giữa phòng triển lãm và Carlo Marchese. Đội của Gabriel dễ dàng lần ra không dưới năm mươi lượt chuyển khoản bắt nguồn từ David Girard, đi qua Ngân hàng Lebanon Byzantine, và cuối cùng chảy vào các tài khoản thuộc quyền kiểm soát của Carlo tại Ngân hàng Vatican. Đây chính là cordata mà Gabriel đang tìm kiếm - sợi dây liên kết Carlo với những kẻ khủng bố của Hezbollah. Ngay từ đầu phía Thụy Sĩ đã tìm ra chứng cứ. Chỉ đơn giản là họ không có chìa khóa để mở mật mã.
Tuy nhiên, lúc này, Carlo là mối quan tâm thứ yếu của cả đội, bởi vì càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều bằng chứng cho thấy David Girard không chỉ đóng mỗi vai trò gây quỹ. Cách đây sáu tháng, hắn có gọi một cú điện thoại đến thung lũng Bekaa của Lebanon, cho một đầu số mà Văn phòng xác định là của một thủ lĩnh Hezbollah địa phương. Và một cú điện thoại khác, hai tuần sau đó, gọi cho một số ở Cairo thuộc về một trong vô số đơn vị Hezbollah đã bén rễ tại đất nước Ai Cập hỗn loạn sau cách mạng. Và hai trăm ngàn đô-la hắn trả cho một nhà buôn đồ cổ Thái Lan ở Bangkok, mảnh đất màu mỡ cho hoạt động của Hezbollah ở Đông Nam Á.
“Nếu tôi phải đoán,” Dina nói, “thì tay David Girard quá cố là người đưa thư. Hắn đã dùng công việc của mình trong ngành buôn cổ vật làm vỏ bọc để bí mật chuyển thư cho các cơ sở của Hezbollah nằm rải rác trên toàn thế giới.”
“Vậy tại sao người Iran muốn khử hắn?”
“Có thể bức thư hắn chuyển có gì đó liên quan đến cuộc tấn công sắp tới. Hoặc có thể...”
“Có thể sao, Dina?”
“Có lẽ nó mang dấu bưu điện Tehran.”
Cuối cùng, không phải nhờ công nghệ cao của Thụy Sĩ hé mở cho họ câu trả lời, mà là nhờ một bức ảnh chụp khi theo dõi kiểu cũ. Được chụp bằng một máy ảnh giấu kín, bức hình cho thấy David Girard đang đi xe điện tại Zurich, có vẻ là chỉ một mình. Trong ba ngày, nó được treo trên bức tường lộn xộn trong phòng 456C, hầu như chỉ để trang trí, cho đến một lần Dina lướt ngang qua nó trên đường đến phòng lưu trữ hồ sơ và bất ngờ khựng lại. Tháo tấm ảnh khỏi bức tường, cô nhìn chằm chằm, không phải vào Girard mà vào bóng người có hàm râu lún phún ngồi cạnh hắn. Người đó quay mặt khỏi Girard, bờ vai cơ bắp của gã cũng vậy, và ánh nắng mặt trời chiếu xuyên qua cửa sổ xe điện dường như đốt cháy mặt kính chiếc đồng hồ lặn nặng nề mà gã đang đeo trên cổ tay phải. Kết quả là, đốm sáng đó đã thu hút ánh nhìn của Dina vào mu bàn tay gã, và đó là lúc cô nhận ra miếng băng gạc. “Chính hắn,” cô thì thầm. “Chính là cái tên quái vật đó.”
Họ đối chiếu bức ảnh của gã ngồi trên xe điện ở Zurich với từng tấm ảnh mà họ có về hắn trong thư viện, nhưng các máy tính đều báo là không đủ dữ liệu để nhận diện. Dina quả quyết hất chiếc cằm thanh tú và tuyên bố máy tính đã nhầm. Đó là gã; cô chắc chắn thế. Cô sẽ đặt cược sự nghiệp của mình vào nó. “Vả lại,”'cô nói thêm, “đừng nhìn vào mặt gã mà hãy nhìn bàn tay.” Bàn tay bị một viên đạn của Israel xuyên thủng tại Lebanon khi gã đang hỗ trợ biến một nhóm người Shiite cùng khổ thành lực lượng khủng bố ghê gớm nhất trên thế giới. Bàn tay đã thấm đầy máu. Đó là Massoud, cô nói. Massoud, kẻ may mắn.
Và thế là Gabriel đưa cô lên lầu và để cô trình bày trực tiếp với Uzi Navot về phát hiện này. Từng lời cô kể khiến mặt ông tái dần và mắt ông vô thức nhìn về chồng tin tình báo mới nhất cho thấy một cuộc tấn công sắp xảy ra. Đợi sau khi cô tường trình xong, Navot hỏi có đề xuất gì không, và Gabriel đã đưa ra một giải pháp duy nhất. Dĩ nhiên là có rủi ro, ông nói, nhưng còn hơn là bó tay chịu trận.
Navot vội vã lên đồi đến Jerusalem để xin Thủ tướng phê duyệt, và trong vòng một giờ, ông đã cầm trên tay giấy phép hành động, chỉ còn mỗi việc thực hiện cuộc gặp ngoại giao bắt buộc với Hoa Kỳ, công việc mà ông vui vẻ giao cho Gabriel. “Dù thế nào chăng nữa,” Navot nói khi đang lái xe ra sân bay Ben Gurion, “đừng xin phép họ. Chỉ cần tìm hiểu xem có quả mìn nào sẽ nổ vào mặt chúng ta hay không. Đây không phải là bè lũ PLO. Đây là Đế quốc Ba Tư chết tiệt.”